*** Y HỌC PHƯƠNG ĐÔNG *** NGUYỄN HƯNG *** HOTLINE : 0945235868 ***

Thạch Quyết Minh

THẠCH QUYẾT MINH
(Concha Haliotidis)
Thạch quyết minh còn gọi là Cửu khổng, Cửu khổng loa, Oác khổng, Bào ngư là vỏ phơi khô của nhiều loại bào ngư có tên khoa học khác nhau như: Haliotis diversicolor Reeve (Cửu khổng bào), Haliotidis gigantea discus Reeve (Bào đại não), Haliotis ovina Gmelin (Dương bào) . thuộc họ Haliotis avinana L. (Nhĩ bào), Haliotis laevigata Donovan (Bạch bào) . thuộc họ Haliotidae, lớp Phúc túc (Gastropoda) ngành Nhuyễn thể (Mollusca). Dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Danh y biệt lục.
Bào ngư là một loại ốc vỏ cứng ở mép có từ 7 đến 13 lỗ (thường có 9 lỗ gọi là Cửu khổng). Bào ngư sống hải đảo hay ven biển có rạn đá ngầm, được khai thác nhiều ở miền Bắc nước ta như vùng các đảo Bạch long vỹ, Cô tô, Cát bà và chân núi Đèo ngang (Quảng bình).
Tính vị qui kinh:
Vị mặn tính hàn, qui kinh Can.
Theo các sách cổ:
  • Sách Danh y biệt lục: vị mặn bình không độc.
  • Sách Thục bản thảo: hàn.
  • Sách Nhật hoa tử bản thảo: lương.
  • Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập Can kinh.
  • Sách Bản thảo thông huyền: nhập túc quyết âm, thiếu âm kinh.
Thành phần chủ yếu:
Calcium carbonat (trên 90%), nhiều loại Amino acid, ít Magnesium, sắt, silicat, phosphat, chlorid.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Thuốc có tác dụng: bình can tiềm dương, thanh can minh mục.
Chủ trị các chứng: can dương thịnh hoặc âm hư dương kháng, can hỏa bốc, can hư mắt mờ.
Trích đoạn Y văn cổ:
  • Sách Danh y biệt lục: " trị mắt có mộng đau, thanh manh (dạng glaucom), uống lâu ích tinh, tăng sức".
  • Sách Bản thảo tùng tân: " trừ phế can phong nhiệt, nội chướng (mắt có màng che), thanh manh, nhỏ mắt trị mắt đỏ, ngoại chướng (mộng mắt, mộng thịt)".
  • Sách Y học trung trung tham tây lục: " vị hơi mặn, tính hơi lương, là thuốc chủ yếu lương can, trấn can, can khai khiếu ở mắt cho nên thuốc có tác dụng làm sáng mắt (minh mục). Tán mịn thủy phi làm thuốc đắp ngoài trị mắt ngoại chướng, làm hoàn tán uống trong trị mắt nội chướng. Vì thuốc có tác dụng lương can, trấn can nên trị được đau do hãm sung huyết, chứng huyễn vựng do can khí can hỏa thượng xung".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
  1. Thuốc có tác dụng an thần, dùng trị chứng mất ngủ có tác dụng nhất định.
  2. Thạch quyết minh nung có tác dụng thu liễm, giảm chua, giảm đau, cầm máu.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị chứng can dương thịnh, hoa mắt chóng mặt:
  • Thạch quyết minh, Sinh địa, Mẫu lệ đều 16g, Bạch thược, Nữ trinh tử, Ngưu tất đều 12g, Cúc hoa 8g sắc uống.
  • Thạch quyết minh 20g, Đương qui, Bạch thược, Kỷ tử đều 12g, Cúc hoa 10g, Thiên ma, Câu đằng đều 8g, Hạ khô thảo 16g sắc uống.
2.Trị các chứng bệnh về mắt:
  • Thạch quyết minh tán: Thạch quyết minh 16g, Câu kỷ tử, Mộc tặc thảo, Tang diệp, Cốc tinh thảo đều 12g, Bạch cúc hoa, Thương truật, Kinh giới, Toàn phúc hoa đều 8g, Thuyền thoái 2g, Cam thảo 3g, sắc uống trị mộng mắt hoặc thanh manh.
  • Thạch quyết minh 20g, Cúc hoa vàng 12g, Cam thảo 4g, sắc uống trị mắt đỏ.
  • Thạch quyết minh cạo sạch vỏ đen ngoài, tán nhỏ thủy phi 10g, dùng gan lợn hay dê bổ đôi cho thuốc vào đun sôi chín để hơi xông mắt, lúc nguội ăn cả gan và nước (kinh nghiệm dân gian).
Liều dùng và chú ý:
  • Liều thường dùng: 15 - 30g. Cho vào thang thuốc nên đập vụn và sắc trước 30 phút. Dùng sống, thuốc có tác dụng bình can tiềm dương, thanh nhiệt minh mục. Thạch quyết minh nung tác dụng thu liễm tốt dùng trị đau bao tử có tác dụng giảm toan, giảm đau, cầm máu.
  • Chú ý: thịt của Bào ngư là một loại thức ăn quí có tác dụng dưỡng can huyết, thành phần có 24% protid, 0,44% lipid và nhiều hoạt chất có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus, chống đông máu và ức chế miễn dịch.


HOÀI SƠN

HOÀI SƠN
( Radix Dioscoreae Popositae)
Hoài sơn là một vị thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh với tên Thư dự ( củ khoai ăn được), Hoài sơn ( Rhizoma Dioscoreae) còn có tên khác là: Sơn dược, Khoai mài, Củ mài, Chính hoài là thân rễ của cây Khoai mài ( Dioscorea persimlis) hoặc ( Dioscorea oppsita Thunb,) cạo vỏ sơ bộ chế biến và sấy khô, thuộc họ củ nâu ( Dioscoreaceae).
Củ mài mọc khắp nơi tại các vùng rừng núi nước ta nhiều nhất ở các tỉnh Hà bắc, Hoàng liên sơn, Thanh hóa, Nghệ tĩnh và Quảng ninh. Hiện nay ta cũng đã trồng củ mài để chế thuốc.
Tính vị qui kinh:
Vị ngọt, tính bình. Qui kinh Tỳ Phế Thận.
Theo Y văn cổ:
  • Sách Bản kinh: vị ngọt tính ôn.
  • Sách Danh y biệt lục: bình không độc.
  • Sách Dược phẩm hóa nghĩa: thuốc sống thì lương, thuốc chín thì ôn.
  • Sách Thang dịch bản thảo: nhập túc thái âm kinh.
  • Sách Đắc phối bản thảo: nhập thủ túc thái âm kinh khí phần.
  • Sách Y học trung trung tham tây lục, Sơn dược giải: nhập Phế, qui Tỳ.
Thành phần chủ yếu:
Saponin, choline, d-abscisin II, vitamin C, mannan, phytic acid.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Hoài sơn có tác dụng ích khí dưỡng âm, bổ tỳ phế thận. Chủ trị các chứng tỳ phế hư nhược, trị chứng tiêu khát thận âm hư.
Theo các sách thuốc cổ:
  • Sách Bản thảo cầu chân: " viết Sơn dược . khí tuy ôn mà bình là thuốc bổ tỳ phế âm, có tác dụng nhuận bì mao, trưởng cơ nhục. tính sáp có thể trị do tinh, vị ngọt kiêm mặn, có thể ích thận cường âm, cho nên trong bài Lục vị dùng nó để hổ trợ Địa hoàng".
  • Sách Bản thảo kinh độc: " Sơn dược bổ thận ích tinh, tinh đủ thì âm cường, mắt sáng tai thính".
  • Sách Bản kinh: " chủ thương trung, bổ hư, trừ hàn nhiệt tà khí, bổ trung ích khí trưởng cơ nhục, uống lâu mắt rõ tai thính".
  • Sách Danh y biệt lục: " trị đau lưng, bổ hư lao, gầy còm, làm mạnh ngũ tạng, cường âm, trừ phiền nhiệt".
  • Sách Dược tính bản thảo: " bổ ngũ lao, thất thương. trấn tâm thần, bổ tâm khí bất túc".
  • Sách Nhật hoa tử bản thảo: " cường gân cốt,. chủ tiết tinh, hay quên".
  • Sách Bản thảo cương mục: " ích thận khí, kiện tỳ vị, cầm tả lî, hóa đờm diện, nhuận bì mao".
  • Sách Cảnh nhạc toàn thư, bản thảo chính: " Sơn dược kiện tỳ, bổ hư tư tinh cố sáp".
  • Sách Dược phẩm hóa nghĩa: " Sơn dược ôn bổ mà không tụ, hơi thơm mà không táo, tác dụng điều phế, trị phế hư cửu khái, trợ tỳ trị tỳ hư phúc tả, thích nằm, chân tay mệt mỏi, vị ngọt bổ dương, có tác dụng bổ trung ích khí, ôn dưỡng cơ nhục, là vị thuốc chủ yếu của hai tạng Tỳ, Phế".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Ít có tài liệu nói đến. Theo Đõ tất Lợi chất Mucin hòa tan trong nước trong điều kiện acid và nhiệt độ thích hợp sẽ phân giải thành chất protid và hydrat carbon có tính chất bổ. Ở nhiệt độ 45 - 55độ C, khả năng thủy phân chất đường của men trong Hoài sơn rất cao, trong acid loãng trong 3 giờ có thể tiêu hóa 5 lần lượng đường. Ngoài giá trị dinh dưỡng, thuốc có giá trị giúp tiêu hóa thức ăn chất bột.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị chứng tiêu chảy kéo dài do Tỳ hư, dùng bài:
  • Sâm Linh Bạch truật tán ( Hòa tể cục phương): Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh, Sơn dược, Chích Cam thảo, mỗi thứ 80g, sao Biển đậu 60g, Liên nhục, Ý dĩ nhân, Cát cánh, Sa nhân mỗi thứ 40g, Trần bì 30g, tất cả tán bột mịn trộn đều, mỗi lần uống 8 - 12g ( trẻ em bớt lượng), với nước sôi nguội, hoặc làm thuốc thang sắc uống.
  • Cốm Bổ tỳ ( Trần văn Kỳ): Bạch biển đậu, Ý dĩ nhân, Hoài sơn đều sao, mỗi thứ 200g, Cốc nha, Liên nhục ( bỏ tim) sao mỗi thứ 100g, Nhục đậu khấu 30g, Trần bì, Sa nhân mỗi thứ 20g. Ba vị sau sắc lấy nước, các vị khác tán bột mịn hòa với nước thuốc cùng ít mật đường làm thành dạng cốm. Trẻ em mỗi lần uống 6 - 12g, chia 2 - 3 lần với nước cơm càng tốt. Bài thuốc này có tác dụng kiện tỳ, hành khí, tiêu thực. Trị tiêu chảy kéo dài, trẻ em suy dinh dưỡng đều tốt. Bột Hoài sơn gia nước khuấy thành hồ uống trị tiêu chảy.
  • Sơn dược 40 - 80g, gạo tẻ ( lâu năm càng tốt), sao hơi vàng hoặc gạo nếp, sao 50 - 100g, sắc uống.
  • Sơn dược 15g, Dĩ nhân 10g tán bột mịn, dùng 1 cái gan gà cắt nhỏ với dao tre trộn thuốc, thêm ít dấm cho vào hấp cơm, chia 2 lần ăn sáng tối. Trị trẻ tiêu chảy kéo dài, hơn 1000 ca kết quả tốt, thường chỉ 3 ngày là khỏi ( Tạp chí Trung y Hồ bắc 1985,5:35).
2.Trị di tinh nhiều lần hoặc phụ nữ bạch đới nhiềudùng bài Bí nguyên tiễn có tác dụng ích thận cố tinh, chỉ đới.
  • Bí nguyên tiễn: Sơn dược, Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Khiếm thực, Táo nhân, Kim anh mỗi thứ 12g, Viễn chí, Ngũ vị tử mỗi thứ 6g, Cam thảo 4g, sắc uống.
3.Trị viêm phế quản mạn tính: do Tỳ phế hư sinh ho đờm nhiều, trong lỏng, người gầy mệt mỏi, ăn kém hoặc lao phổi thể phế âm hư, dùng bài:
  • Nhất vị thự dự ẩm: Sơn dược sống lượng từ 100 đến 200g tùy lớn bé sắc uống trong ngày như nước uống.
  • Hòa phế ẩm: Hoài sơn 16g, Đảng sâm 16g, Mạch môn, Phục linh, Bách hợp mỗi thứ 12g, Bắc Hạnh nhân, Chích Cam thảo, Thổ bối mẫu mỗi thưs 10g, sắc uống. Có thể dùng Xuyên Bối mẫu 8g, tán bột hòa nước uống.
4.Trị chứng tiểu đườngthường dùng cho tiểu đường NDI thể nhẹ và trung bình, dùng độc vị như trên dùng bài:
  • Sơn dược tiêu khát ẩm: Hoàng kỳ 16g, Hoài sơn 20g, Thiên hoa phấn, Tri mẫu mỗi thứ 12g, Kê nội kim 8g, Ngũ vị tử 6g, sắc uống.
  • Ngọc dịch thang: Sơn dược 24g, Hoàng kỳ, Cát căn, Hoa phấn, Tri mẫu mỗi thứ 12g, Kê nội kim 8g, Ngũ vị tử 6g, sắc uống.
  • Hoài sơn 30g, Phúc bồn tử, Mạch môn, Thiên hoa phấn mỗi thứ 12g, sắc nước uống.
Liều lượng thường dùng và chú ý:

  • Liều thường dùng: 12 - 40g, liều cao dùng đến 80 - 160g, dùng thay nước uống có thể đến 200 - 300g mỗi ngày.
  • Cần bổ âm nên dùng thuốc sống, dùng kiện tỳ chỉ tả nên sao vàng.

Sa Tiền Tử - ( Cây Mã Đề )


SA TIỀN TỬ

( Cây Mã đề)
Plantago asiatica họ Plantaginacea
Bộ phận dùng làm thuốc là hạt Sa tiền tử, toàn cây.
Tính vị qui kinh: ngọt lạnh vào kinh Can, Thận, Tiểu trường.
Tác dụng: Lợi niệu, thanh nhiệt, minh mục thanh can, hoạt thai.
Ứng dụng lâm sàng: trị Viêm bàng quang, ỉa chảy do thấp, viêm kết mạc, thị lực giảm, hoạt thai ( đẻ khó).
Liều lượng: 4 - 12g. Hạt dùng sống hay sao, cây lá dùng sống.
Cấm kî: không có thấp nhiệt không dùng. Phụ nữ có thai không dùng .
Chú thích: Sa tiền tử và Sa tiền thảo có tác dụng gần giống nhau.
Sa tiền thảo dùng trong thanh nhiệt giải độc.

Xem Thêm 

Cây Đinh Lăng


Cây đinh lăng thường được trồng ở các đình chùa, trước sân nhà làm cảnh bởi lẽ có dáng cây, kiểu lá đẹp xum xuê và quanh năm xanh tốt. Ngày xưa, nhân dân thường lấy lá non của cây đinh lăng để ăn gỏi cá nên còn gọi là cây gỏi cá.
Đinh lăng có tên khoa học là Polyscias fruticosa (L...) Harms, cùng họ với cây nhân sâm (sâm Triều Tiên) nổi tiếng (họ Araliaceae). Đinh lăng là một loại cây nhỏ, sống nhiều năm, cao từ 0,8-1,5m, thân nhẵn không có gai và phân nhánh nhiều. Lá kép 3 lần xẻ lông chim, dài 20-40cm. Phiến lá kép có thùy sâu và mép có răng cưa không đều. Vò ra lá có mùi thơm. Cụm hoa là một khối hình chùy ngắn, gồm nhiều tán đơn hợp lại. Mỗi tán mang nhiều hoa nhỏ có cuống ngắn. Hoa 5 cánh trắng hình trứng, dài 2mm có 5 nhị với chỉ nhị ngắn và mảnh, bầu dưới có 2 ô có rìa trắng nhạt. Quả dẹt màu trắng bạc dài 3-4mm, dày 1mm, mang vòi tồn tại.
Khoảng 40-50 năm trở lại đây, nhiều nhà khoa học trên thế giới đã chú ý đến tác dụng tăng lực, bồi bổ cơ thể của nhiều cây cùng họ với cây nhân sâm. Một số cây trong họ này cho những vị thuốc bổ nổi tiếng và được dùng từ lâu đời trong nhân dân ta như nhân sâm, ngũ gia bì, tam thất... Đinh lăng cũng có tác dụng bổ như nhiều cây họ hàng với nó. Ngày xưa vào dịp hội hè thường tổ chức thi đấu vật, trước khi thi đấu các đô vật hay vò lá đinh lăng với nước để uống cho tăng sức dẻo dai, vật lâu không mệt.
Bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu là rễ, lấy ở những cây trồng từ 3 năm trở lên. Người ta thường đào lấy rễ cây đinh lăng vào mùa thu hay mùa đông vì lúc này hoạt chất tập trung ở rễ và rễ mềm hơn. Rễ đào về đem rửa sạch đất cát, thái nhỏ rồi phơi, hay sấy khô. Cũng có thể tẩm thêm rượu, gừng và sao cho thơm. Ngoài rễ ra, người ta còn dùng cả thân và lá đinh lăng.
Những năm trước đây các nhà khoa học nước ta (Viện Y học quân sự) cũng có nhiều công trình nghiên cứu dùng đinh lăng làm thuốc tăng lực, tăng khả năng lao động cho người có kết quả tốt. Làm thuốc bổ gây ăn ngon miệng, ngủ tốt, tăng cân, giúp cơ thể chóng hồi phục sau khi mổ, ốm nặng.
Đinh lăng dùng khá an toàn. Liều trung bình là 0,25-0,50g một lần, ngày uống 2-3 lần, dùng dưới dạng thuốc bột (sao thơm, tán nhỏ, rây bột mịn), thuốc viên, hoặc rượu thuốc.
Ngoài ra một số nghiên cứu còn cho thấy đinh lăng có tác dụng an thần và làm tăng tác dụng của thuốc chống sốt rét. Trong nhân dân có nơi còn dùng rễ đinh lăng để chữa ho, thông tiểu, thông sữa và chữa kiết lỵ. Hoặc dùng lá đinh lăng giã nát để đắp vết thương. Song cần chú ý phân biệt cây đinh lăng lá nhỏ hay cây gỏi cá nói trên với mấy cây tương tự như: đinh lăng lá tròn, đinh lăng trổ... tác dụng tăng lực yếu, không bổ

HOÀNG BÁ


HOÀNG BÁ
Tên thuốc: Cortex Phellodendri. 
Tên khoa học: Phellodendron amurense Rupr
Họ Cam Quýt (Rutaceae)
Bộ phận dùng: vỏ cây. Vỏ phía ngoài sắc vàng nâu, có nhiều đường nứt nẻ. Phía trong vàng chói, trơn bóng. Vỏ dày, rộng bản là tốt. Không nhầm với cỏ cây núc nác còn gọi là nam hoàng bá (Oroxylon indicum (L) Vent) vỏ. Mỏng vàng nhạt, không bóng.
Tính vị: vị đắng, tính hàn.
Quy kinh: Vào kinh Thận  và Bàng quang.
Tác dụng: thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu, tả tướng hoả.
Chủ trị:
Dùng sống: trị nhiệt lỵ, tiêu chảy, tiểu buốt, tiểu gắt, hoàng đản, xích bạch đới.
Dùng chín: trị đau mắt, miệng lở loét.
Liều dùng: Ngày dùng  6 - 12g.
Cách bào chế:
Theo Trung Y: Hoàng bá tính hàn mà chìm, dùng sống tả thực hoả, dùng chín khỏi hại dạ dày, chế rượu trị bệnh ở thượng tiêu;  chế muối trị bệnh ở hạ tiêu;  chế mật trị bệnh ở giữa (Bản Thảo Cương Mục).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, ủ mềm thái miếng phơi khô (dùng sống) rồi tẩm rượu sao vàng (thường dùng) hoặc sao cháy.
Bảo quản: để nơi khô ráo, đậy kín, tránh ẩm, phòng sâu mọt và biến màu.
Kiêng kỵ: các chứng không phải thực hoả hoặc Tỳ  hư  tiêu lỏng, kém ăn thì không nên dùng.

ĐẠI HOÀNG MẪU ĐƠN THANG


ĐẠI HOÀNG MẪU ĐƠN THANG
( Kim quỹ yếu lược )
Thành phần:
  1. Đại hoàng 6 - 12g
  2. Đào nhân 8 - 12g
  3. Mang tiêu 8 - 12g
  4. Mẫu đơn bì 8 - 12g
  5. Đông qua nhân 12 - 20g

Cách dùng: Đại hoàng cho vào sau, Mang tiêu tán bột mịn cho vào thuốc đã sắc, trộn đều uống.
Tác dụng: Thanh nhiệt, giải độc, tả hỏa, phá ứ, tán kết, tiêu ung.
Giải thích bài thuốc:
  • Đại hoàng thanh nhiệt, giải độc, tả hạ; Đơn bì lương huyết tiêu ứ đều là chủ dược.
  • Mang tiêu hợp với Đại hoàng thanh nhiệt giải độc, tả hạ thông tiện.
  • Đào nhân hợp với Đơn bì hoạt huyết tán ứ.
  • Đông qua nhân tán kết bài nùng.
Ứng dụng lâm sàng:
Bài thuốc chủ trị bệnh trường ung ( thường chỉ bệnh viêm ruột thừa cấp ).
Tùy trường hợp có gia giảm như:
  1. Sốt cao, đau bụng nhiều gia Hoàng liên để thanh nhiệt giải độc.
  2. Đại tiện không thông mót rặn, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác có dấu hiệu thương âm bỏ Mang tiêu gia Huyền sâm, Sinh địa để dưỡng âm thanh nhiệt.
  3. Trường hợp có khối u ở bụng dưới nên phải gia Đương quy, Xích thược, Địa long để hoạt huyết hóa ứ.
  4. Trường hợp đã hóa mủ cần gia thuốc thanh nhiệt giải độc như Kim ngân hoa, Bồ công anh, Bạch hoa xà thiệt thảo.
Bài thuốc có thể dùng để chữa các bệnh viêm phần phụ hoặc táo bón thuộc thấp nhiệt.
Chú ý không dùng đối với các trường hợp sau: viêm ruột thừa đã có mủ nặng kèm viêm phúc mạc có triệu chứng nhiễm độc choáng, phụ nữ có thai viêm ruột thừa mạn tính tái phát và các trường hợp người già trẻ em thể chất hư nhược. Ở Trung quốc có nhiều báo cáo sử dụng bài thuốc gia giảm kết hợp châm cứu chữa viêm ruột thừa có tác dụng tốt.

ĐẠI ĐỊNH PHONG CHÂU


ĐẠI ĐỊNH PHONG CHÂU
( Ôn bệnh điều biện)
Thành phần:
  1. Bạch thược 12 - 24g
  2. Sinh Qui bản 12 - 24g
  3. Ma nhân 6 - 12g
  4. Sinh Mẫu lệ 12 - 16g
  5. Chích thảo 8 - 12g
  6. Sinh Miết giáp 12 - 16g
  7. A giao 8 - 12g
  8. Can địa hoàng 12 - 20g
  9. Ngũ vị tử 6 - 8g
  10. Mạch môn 12 - 24g
  11. Kê tử hoàng 2 quả

Cách dùng: sắc nước bỏ bã cho A giao tan đều, cho Kê tử hoàng trộn đều uống nóng.
Tác dụng: Tư âm tăng dịch tức phong.
Giải thích bài thuốc:
  • Kê tử hoàng, A giao tư âm tăng dịch để trừ nội phong là chủ dược.
  • Địa hoàng, Mạch môn, Bạch thược tư âm nhuận gan.
  • Qui bản, Miết giáp, Mẫu lệ dục âm tiềm dương.
  • Chích thảo, Ngũ vị tử chua ngọt sinh âm.
  • Ma nhân dưỡng âm nhuận táo.
Các vị thuốc hợp lại cùng dùng có tác dụng tư dưỡng âm dịch, nhuận gan tức phong.
Ứng dụng lâm sàng:
  1. Bài thuốc chữa chứng nhiệt thịnh thương âm, hư phong nội động. Nếu khí hư có thể gia Nhân sâm. Tự ra mồ hôi gia Long cốt, Nhân sâm, Tiểu mạch. Tim hồi hộp khó ngủ gia Phục thần, Nhân sâm, Tiểu mạch.
  2. Trường hợp viêm não sốt kéo dài, bệnh nhân mệt mỏi, mạch khí hư nhược lưỡi đỏ thẫm rêu ít, dùng bài thuốc này điều trị. Nếu có đờm nhiều gia Thiên trúc hoàng, Bối mẫu để thanh hóa nhiệt đờm. Có triệu chứng sốt nhẹ kéo dài dùng Sinh địa thay Can địa hoàng, Bạch vi, Sa sâm, Ngũ vịtử.
Phụ phương:
A GIAO KÊ HOÀNG THANG
( Thông tục thương hàn luận)
Thành phần:
  1. A giao 8 - 12g
  2. Sinh Bạch thược 12g
  3. Thạch quyết minh 16 - 20g
  4. Câu đằng 6 - 8g
  5. Đại Sinh địa 12 - 16g
  6. Chích thảo 3 - 4g
  7. Phục thần mộc 12 - 16g
  8. Kê tử hoàng 2 quả
  9. Lạc thạch đằng 12g
  10. Sinh Mẫu lệ 12 - 16g

Cách dùng: sắc và uống như bài trên.
Tác dụng: nhuận gan tức phong tư âm.
Chủ trị: chứng sốt lâu ngày, chân âm bị tổn thương gây nên huyết hư sinh phong, chân tay run giật, gân cơ co cứng hoặc váng đầu, chóng mặt, chất lưỡi đỏ thẫm, rêu ít, mạch tế sác.



ĐẠI BỒ ÂM HOÀN


ĐẠI BỒ ÂM HOÀN
( Đan khê tâm pháp)
Thành phần:
  1. Hoàng bá sao 16g
  2. Thục địa ( chưng rượu) 24g
  3. Tri mẫu ( rượu sao) 16g
  4. Qui bản ( tẩm giấm nướng) 24g

Cách dùng: Tất cả tán bột mịn hòa với nước tủy xương sống lợn đun chín luyện mật làm hoàn theo tỷ lệ trên, làm nhiều ít tùy ý. Mỗi lần uống 8 - 12g, vào sáng tối 2 lần. Có thể làm thang sắc uống.
Tác dụng: Tư âm giáng hỏa.
Giải thích bài thuốc:
Là bài thuốc chủ yếu để tư thận âm giáng hư hỏa, chữa chứng âm hư nội nhiệt. Trong bài:
  • Hoàng bá đắng hàn tả thanh hỏa.
  • Tri mẫu thanh hư nhiệt.
  • Thục địa tư bổ thận âm.
  • Qui bản tư âm tiềm dương thêm tủy sống heo để bổ tinh giảm bớt tính táo và đắng của Tri mẫu, Hoàng bá.
Các vị cùng dùng có tác dụng tư âm giáng hỏa.
Ứng dụng lâm sàng:
Trên lâm sàng bài thuốc chủ yếu trị các chứng âm hư nội nhiệt biểu hiện sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, lòng bàn tay bàn chân nóng. Nếu nhiệt thương phế lạc làm cho ho ra máu. Nếu hư nhiệt ảnh hưởng đến tỳ vị sinh ra chứng tiêu khát.
  1. Trường hợp ra mồ hôi trộm nhiều gia Mẫu lệ, Lá dâu, Phù tiểu mạch, Rễ lúa nếp để dưỡng âm liễm hãn.
  2. Trường hợp bệnh lao ho ra máu gia Tiên hạc thảo, Trắc bá diệp, Cỏ nhọ nồi, A giao để dưỡng âm chỉ khái cầm máu.
  3. Trường hợp khát nước uống nước nhiều gia Thạch hộc, Thiên hoa phấn, Sa sâm để dưỡng vị âm chỉ khát.
Chú ý: Bài thuốc không nên dùng đối với bệnh nhân tỳ vị hư nhược, ăn kém, tiêu lỏng.
Phụ phương:
TƯ THẬN HOÀN 
(còn có tên THÔNG QUAN HOÀN )
( Lam thất bí tàng)
  1. Thành phần:
  2. Tri mẫu 40g
  3. Hoàng bá 40g
  4. Quế nhục 2g

Cách dùng: Tán bột làm hoàn, mỗi lần uống 8 - 12g, ngày 2 lần lúc bụng đói với nước sôi ấm.
Tác dụng: Thanh nhiệt ở hạ tiêu.
Chủ trị: chứng bàng quang nhiệt tiểu khó, bụng dưới đầy trướng.
Bài thuốc chủ yếu là giáng hỏa để giúp bàng quang khí hóa lợi thủy được tốt hơn.
TƯ ÂM GIÁNG HỎA PHƯƠNG
( Hải thượng Y tôn tâm lĩnh)
Thành phần:
  1. Thục địa 40g
  2. Sinh địa 40g
  3. Đan sâm 20g
  4. Thiên môn 12g
  5. Ngưu tất 12g
  6. Ngũ vị 6g

Cách dùng: trước hết dùng 20g Thạch hộc đổ 2 bát nước sắc lấy còn 1,2 bát; sau đó cho các vị thuốc vào sắc còn 1 bát uống lúc còn ấm.
Chủ trị: các chứng âm hư dương lấn, thủy suy hỏa bốc, mạch hồng, sác, người gầy, da khô, khát nước, thổ huyết nục huyết.

ĐẠI THỪA KHÍ THANG


ĐẠI THỪA KHÍ THANG
( Thương hàn luận )
Thành phần:
  1. Đại hoàng 8 - 16g
  2. Hậu phác 8 - 16g
  3. Mang tiêu 6 - 12g
  4. Chỉ thực 8 - 16g

Cách dùng:
Ngày dùng 1 thang sắc uống. Cho Hậu phác và Chỉ thực nấu sôi 5 - 5 phút, cho Đại hoàng vào sắc tiếp rồi đổ ra lọc bỏ bã, cho Mang tiêu hoặc Huyền minh phấn ( là chất tinh chế Mang tiêu ) vào trộn tan đem dùng. Sau khi uống 2 - 3 giờ vẫn chưa thấy "tả hạ" thì uống nước thứ hai, nếu không đại tiện được thì ngưng thuốc.
Tác dụng: Công hạ nhiệt tích ở Đại tràng, tả hỏa giải độc tiết nhiệt lợi đờm, tiêu trừ bỉ mãn.
Giải thích bài thuốc:
  • Đại hoàng tính đắng hàn tả nhiệt thông tiện ở đại tràng là chủ dược.
  • Mang tiêu tính mặn hàn tả nhiệt nhuyễn kiên nhuận táo, trừ tích.
  • Chỉ thực, Hậu phác tiêu bỉ, trừ mãn, hành khí, tán kết.
Các vị thuốc hợp lại có tác dụng chung là tuấn hạ nhiệt kết.
Ứng dụng lâm sàng:
Chỉ định bài thuốc là các chứng "bỉ", "mãn", "táo" thực chứng, mạch có lực.
  1. Bài thuốc được sử dụng trong trường hợp bệnh nhiễm ( thương hàn ôn bệnh) có chứng dương minh phủ. Triệu chứng: đại tiện táo kết, bụng đầy ấn đau, hôn mê nói sảng, sốt cao về chiều, rêu lưỡi vàng dày khô, mạch trầm thực.
  2. Trường hợp "nhiệt kết bàn lưu" bệnh nhân tiêu chảy nước trong hôi thối, bụng đầy đau, mồm khô lưỡi táo, mạch hoạt sác hoặc chứng nhiệt quyết co giật cuồng hỏa, thuộc chứng lý thực nhiệt.
  3. Trên lâm sàng thường dùng bài thuốc để trị các bệnh viêm túi mật cấp, viêm ruột thừa cấp và một số bệnh nhiễm trùng sốt cao, hôn mê co giật, bụng đầy táo bón, mạch có lực, có thể gia giảm tùy theo triệu chứng lâm sàng.
  4. Bài thuốc có tác dụng tả hạ mạnh cho nên không dùng trong các trường hợp khí âm hư không có nhiệt kết ở trường vị, phụ nữ có thai. Lúc sắc thuốc phải chú ý sắc Chỉ thực, Hậu phác trước rồi mới cho Đại hoàng sau đó mới cho Mang tiêu để uống vì Đại hoàng, Mang tiêu sắc lâu sẽ giảm bớt tác dụng tả hạ.
  5. Trên thực nghiệm cho thấy bài thuốc có tác dụng tăng cường nhu động ruột, cải thiện tuần hoàn máu, và làm giảm bớt tính thẩm thấu của mao mạch.
Phụ phương:
TIỂU THỪA KHÍ THANG
( Thương hàn luận)
Thành phần:
  1. Đại hoàng 8 - 16g
  2. Hậu phác 8 - 10g
  3. Chỉ thực 8 - 12g

Cách dùng: sắc nước uống.
Chủ trị: bệnh Dương minh phủ chứng như trên nhưng tác dụng yếu hơn.
ĐIỀU VỊ THỪA KHÍ THANG
( Thương hàn luận )
Thành phần:
  1. Đại hoàng 8 - 16g
  2. Chích Cam thảo 4 - 8g
  3. Mang tiêu 8 - 16g

Cách sắc và uống như trên.
Trị chứng Dương minh sốt, mồm khát, táo bón, bụng đầy cự án, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
So sánh 3 bài thuốc Tiểu thừa khí không có vị Mang tiêu cho nên chủ yếu trị chứng " bĩ", "mãn" thực mà không táo nên không cần dùng Mang tiêu để nhuận táo. Ngoài ra trong bài Tiểu thừa khí lượng Hậu phác, Chỉ thực ít hơn. Ba vị hợp lại cùng sắc cho nên tác dụng yếu hơn.
Còn bài Điều vị thừa khí thang dùng Đại hoàng, Mang tiêu mà không có Chỉ thực, Hậu phác cho nên chủ trị của bài thuốc là chứng táo nhiệt nội kết, ngoài ra dùng Cam thảo để điều hòa vị khí, nên tác dụng so với hai bài trên hòa hoãn hơn, nên dùng điều trị chứng Dương minh phủ nhẹ hơn. Ngoài ra có thể trị chứng phát ban, mồm răng lợi họng đau lở lóet có kết quả.
LƯƠNG CÁCH TÁN
( Hòa tể cục phương )
Thành phần:
Đại hoàng, Phác tiêu, Cam thảo, Chi tử, Hoàng cầm, Bạc hà, Liên kiều
Liều lượng tùy chứng gia giảm, làm tán hoặc sắc nước uống.
Có tác dụng thanh nhiệt tích ở thượng và trung tiêu đồng thời thông tiện.
Đại thừa khí thang chủ yếu trị nhiệt tích ở trung hạ tiêu, bứt rứt, khát nước, mặt đỏ, môi khô, mồm lưỡi sang lở, họng đau, hoặc nôn, chảy máu mũi, táo bón, tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch hoạt sác.

ĐẠI SÀI HỔ THANG


ĐẠI SÀI HỔ THANG
( Kim quỹ yếu lược )
Thành phần:
  1. Sài hồ 8 - 12g
  2. Đại hoàng 4 - 8g
  3. Chế Bán hạ 8 - 12g
  4. Sinh khương 12 - 16g
  5. Hoàng cầm 8 - 12g
  6. Chỉ thực (chích) 8 -12g
  7. Bạch thược 8 - 12g
  8. Đại táo 2 - 4 quả

Cách dùng: sắc nước uống.
Tác dụng: Hòa giải thiếu dương, tả hạ nhiệt kết.
Giải thích bài thuốc:
Bài thuốc này do bài Tiểu sài hồ thang bỏ Nhân sâm, Cam thảo, gia Đại hoàng, Chỉ thực, Bạch thược.
  • Sài hồ, Đại hoàng có tác dụng hòa giải thiếu dương, tả nhiệt dương minh kinh đều là chủ dược.
  • Hoàng cầm giúp Sài hồ hòa giải thiếu dương.
  • Chỉ thực cùng Đại hoàng thanh tán kết nhiệt ở dương minh.
  • Bán hạ, Sinh khương giáng nghịch chỉ ẩu, hợp với Đại hoàng, Chỉ thực tăng thêm tác dụng giáng vị khí chỉ ẩu.
  • Bạch thược hợp với Đại hoàng, Chỉ thực hòa trung trị Phúc thống.
  • Đại táo điều hòa các vị thuốc.
Ứng dụng lâm sàng:
Bài thuốc chủ trị chứng Thiếu dương và Dương minh đồng bệnh có các triệu chứng hàn nhiệt vãng lai, ngực sườn đầy tức, nôn khó cầm, bụng trên đầy đau, đại tiện táo bón hoặc nhiệt kết hạ lợi, rêu lưỡi vàng, mạch huyền có lực, thuộc chứng thực nhiệt.
  1. Trường hợp táo bón có saün nhiệt thịnh phiền táo, mồm khát, lưỡi khô, mặt đỏ, mạch hồng, thực gia thêm Mang tiêu, để tả nhiệt thông tiện.
  2. Trường hợp bụng trên đầy đau gia Qua lâu bì để thanh nhiệt hành khí.
  3. Trường hợp nói sãng, sốt cao gia Hoàng liên, Sơn chi tử để thanh tả tâm vị nhiệt.
  4. Trường hợp Hoàng đản ( vàng da) gia Nhân trần cao, Hoàng bá để thanh trừ thấp nhiệt.
  5. Trường hợp nôn nhiều gia Tả kim hoàn, Trúc nhự để thanh nhiệt chỉ ẩu.
Chú ý: bài thuốc không được dùng nếu không có hội chứng lý thực nhiệt tích trệ.
Phụ phương:
PHỨC PHƯƠNG ĐẠI SÀI HỔ THANG
( Kinh nghiệm phương)
Thành phần:
  1. Sài hồ 12g
  2. Hoàng cầm 12g
  3. Xuyên luyện tử 12g
  4. Diên hồ sách 12g
  5. Bạch thược 12g
  6. Đại hoàng 12g
  7. Bồ công anh 20g
  8. Chỉ thực 8g
  9. Mộc hương 8g
  10. Sinh Cam thảo 8g

Cách dùng: sắc nước uống.
Tác dụng: hòa giải biểu lý thanh tả nhiệt kết.
Trị: chứng đau bụng trên hoặc đau bụng dưới bên phải, sôi bụng táo bón, sốt mạch sát, rêu lưỡi vàng.
THANH TỤY THANG
( Tân biên trung y học khái yếu)
Thành phần:
  1. Sài hồ 20g
  2. Bạch thược 20g
  3. Mộc hương 12g
  4. Diên hồ sách 12g
  5. Hoàng cầm 12g
  6. Hồ Hoàng liên 12g
  7. Đại hoàng 20g
  8. Mang tiêu 12g

Cách dùng: sắc nước uống.
Tác dụng: Thanh nhiệt tả thực, sơ can lý khí, chỉ thống.
Chủ trị: chứng Can khí uất trệ, tỳ vị uất nhiệt, thường gặp trong chứng Viêm tụy cấp.

BA TIÊU

BA TIÊU


-Tên khác:

Ba thư, Bản tiêu, Đởm bình tiêu, Nha tiêu, Vô nhĩ văn tuyết (Hòa hán dược khảo), Cam tiêu (Biệt lục), Thiên thư (Sử ký chú), Thiệt danh hương tiêu (Cương mục thập di), Thủy tiêu ( Gia hựu bản thảo đồ kinh), Ưu đàm hoa (Phạn ngữ), Chuối tiêu (Việt Nam).

-Tên khoa học:

Musa Basloo Sieb. Et Zucc.
-Họ khoa học: Musaceae.

-Mô tả:

Cây thảo, cao 5-6m, sống lâu năm. Thân cây tròn, mềm, thẳng, có bẹ lá. Cuống hình tròn có khuyết rãnh. Lá to, dài. Trái nằm trên buồng, có từ 6-8 nải, mỗi nải khoảng 12 trái. Trái nhỏ, dái, mùi thơm. Khi chín, vỏ vẫn mầu xanh nhưng khi chín mùi thì mầu vàng.


-Thành phần hóa học:

+Trong 100g phần ăn được, có bột đường (27,7g), chất đạm (1,1g), nước (74,1g), sinh tố C (9mg), B1 (0,03mg), B2 (0,04mg), Caroten (359 Unit), Calcium (11mg), Magnéium (42mg), Kalium (279mg), Sắt (0,56mong), 8,6% Fructos, 4,7% Glucos, 13,7% Sacaros. Trong chuối có nhiều Pectin, là 1 Glucid không có giá trị về mặt năng lượng nhưng là chất gíup cho sự tiêu hóa hấp thu tốt, chống nhiễm trùng đường ruột. Chuối cung cấp nhiều năng lượng nhất (trên dưới 100 Calori/100g nạc chuối chín tươi) vì chuối chứa nhiều bột đường nhất (Trái cây và sức khỏe).

-Tính vị:  Vị ngọt, tính rất lạnh, không độc.

-Tác dụng, chủ trị:

+Thanh Vị hỏa, giải nhiệt độc. Trị phù thũng, ho (TQDHĐT.Điển).

+Chuối chín làm tăng hồng cầu, huyết cầu tố, giúp giảm được tình trạng nhiễm Acid cho chế độ ăn nhiều thịt, mỡ hoặc quá nhiều ngũ cốc. Chuối chín tươi được coi là thuốc đối với người bị bệnh đường ruột kể cả tiêu chảy, lỵ; là thuốc lợi tiểu cho ngày.2 bị thũng, tăng hấp thụ cho trẻ bị suy dinh dưỡng (Trái cây và sức khỏe).
-Đơn thuốc kinh nghiệm:

+Trị trẻ nhỏ gầy ốm, suy dinh dưỡng, cam tích, cam còm: Chuối ngự (dùng loại thật chín) 12g, Thịt cóc (Cóc lột da, rửa sạch máu, mủ, bỏ hết tạng phủ, chỉ lấy thịt - nhất là ở 2 đùi, sấy khô, tán bột) 10g, Trứng gà (luộc chín, chỉ lấy tròng đỏ) 2g, ba thứ trộn chung, gĩa nhuyễn, làm thành viên 6g, sấy khô. Ngày uống 6-12g. (Phòng và chữa bệnh bằng món ăn hàng ngày).

+Thuốc bổ dùng cho người mới bệnh nặng dậy, sút cân, kém ăn, mất ngủ, thiếu máu: Chuối tiêu bóc vỏ 15 quả, Lòng đỏ trứng gà luộc 15 cái, Gạo nếp 1kg, Men rượu 10 miếng. Gạo nếp nấu được cơm, để nguội; Chuối tiêu và lòng đỏ trứng gà nghiền nhỏ; Men rượu tán bột. Các thứ trộn đều, cho vào hũ sành ủ thành rượu, sau 20 ngày là có thể dùng được, mỗi ngày ăn nửa chén vào lúc đói (Phòng và chữa bệnh bằng món ăn hàng ngày).

+Trị hắc lào: lúc mới phát hiện, lấy quả chuối tiêu xanh, thái thành từng lát mỏng, xát liên tục lên chỗ ngứa (Kinh nghiệm dân gian Việt Nam).

+Trị bạch đới: Ba tiêu căn (tươi) 250g, thịt heo 120g. Hầm cho nhừ, lấy nước uống (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị bị phỏng: Lá chuối tiêu, sấy khô, tán nhuyễn, trộn với trứng gà, đắp (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị ho, lao phổi: Hoa chuối (tươi) 60g, Phổi heo 250g, thêm nước, hầm cho nhừ, ăn cả nước lẫn cái (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị ngực đau thắt (tâm giảo thống): Hoa chuối tiêu tươi 250g, Tim heo 1 cái. Thêm nước, hầm cho thật nhừ, ăn (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị tai giữa viêm: dùng nõn chuối tiêu, 1 khúc, ép lấy nước côt, nhỏ vào tai. Ngày 2-3 lần (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị chứng tiêu khát, họng khô, miệng khát khớp xương phiền nóng: Rễ chuối tiêu tươi 1000g, ngày,2 nát, ép lấy nước. Mỗi lần uống 20-30ml, ngày uống 2-3 lần (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị huyết áp cao, não xung huyết: Vỏ cây chuối hoặc quả chuối 30-60g, sắc uống (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị bàng quang viêm, tiểu gắt: Rễ cây chuối 30g, Hạn liên thảo 30g. Sắc, chia làm 3 lần uống (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị thai động không yên: Rễ cây chuối tươi 60g, thịt heo nạc 120g, thêm nước, hầm thật nhừ, ăn (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị băng lậu: Ba tiêu căn 250g, Thịt heo nạc 100g. Nấu nhừ, ăn cả nước lẫn cái (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

-Tham khảo:

+” Cây chuối tiêu cho nhựa gọi là Ba Tiêu Trấp. Khi lấy nhựa chuối, dùng ống tre vót nhọn đầu, cắm vào thân cây chuối, nhựa chuối sẽ từ từ chảy ra, lấy chai hứng lấy, để dành dùng dần. Nhựa chuối có vị hơi ngọt, tánh lạnh, không độc. Có tác dụng trị chứng đầu phong, cuồng nhiệt, phiền khát, uống vào hễ nôn ra được là khỏi. Nước trấp chuối trị phỏng lửa rất hay. Nhựa chuối bôi có tác dụng làm đen râu, tóc và bớt rụng. Hoa chuối gọi là Ba Tiêu Hoa, vị ngọt, tính lạnh, không độc, nấu hoặc luộc ăn cũng tốt. Trị chứng tê, tim đau: đốt tồn tính, uống với nước muối. Rễ cây gọi là Ba Tiêu Căn, vị hơi ngọt, tính rất lạnh, không độc. Trị các chứng cuồng nhiệt lúc trời nóng, người bệnh mê man hoặc phiền nhiệt, phát cuồng, các chứng ung nhọt. Bị ung nhọt, đơn độc, sưng đau, đào củ chuối thối đắp vào mụn nhọt đang sưng nóng đau rất hay. Lá chuối gọi là Ba Tiêu Diệp, nghiền nát, trộn với nước Gừng, bôi, trị các chứng sưng độc mới phát (Bảm thảo cương mục)”.

+” Ăn vài trái chuối chín và uống nửa lít sữa đậu nành hoặc sữa bò coi như 1 bữa ăn đầy đủ dưỡng chất - Chuối gìa, chuối chín chưa hoàn toàn chứa nhiều tinh bột không tiêu hóa được, khó qua khỏi dạ dầy, có thể gây xót ruột non, gây đau bụng và táo bón. Vậy phải ăn chuối chín mùi, vừa dễ tiêu hóa vừa bổ dưỡng” (Trái cây và sức khỏe).

+” Có kinh nghiệm cho rằng chuối gìa có tính lạnh, khó tiêu, nếu người dạ dầy và ruột có vấn đề thì không nên ăn. Người bình thường phổi yếu, nhiều đờm, nhât là có bệnh suyễn, bệnh sốt rét chưa khỏi hẳn, đều không nên ăn chuối gìa. Có người cho rằng dùng chuối gìa nấu với rượu có tác dụng bổ dưỡng rất tốt. Tuy chuối gìa có tính lạnh và đầy nhưng khi nấu với rượu gạo thì rượu có thể trừ được tính lạnh và đầy của chuối - Người bị bón kinh niên, huyết áp cao, động mạch xơ cứng, nên ăn chuối thường xuyên để điều hòa ruột và dạ dầy, làm mát rạng phủ. Nếu ăn chuối gìa, nên ăn sau bữa cơm. Đừng ăn nhiều, mỗi bữa chỉ ăn 1 quả là đủ. Chuối có công dụng dự phòng hiện tượng xơ hóa động mạch dẫn đến chứng chân tay tê dại” (Chữa bệnh bằng thức ăn kết hợp với Trung y Trung dược).

+” Theo Giáo sư Khamian (Ấn Độ) thì những người bệnh bị loét dạ dầy được điều trị bằng chuối xanh đã cho kết quả khả quan. Chuối xanh được phơi khô ở nhiệt độ thấp kích thích sự tăng trưởng của lớp màng nhầy bên trong dạ dầy bằng cách tạo thêm những tế bào sản xuất chất nhầy. không những nó làm cho màng nhầy dầy lên đúng mức mà còn làm cho lớp màng dầy lên đến mức có thể hàn gắn nhanh chóng bất cứ chỗ loét nào hiện có. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại chuối đều cho kết quả như vậy. Những chuối chín và chuối được phơi ở nhiệt độ cao không thực sự kích thích sự tăng trưởng của lớp màng nhầy. Mức độ hiệu quả của chuối cũng thay đổi tùy theo từng loại chuối. Vì thế, số lượng hoạt chất có trong loại chuối phải tùy thuộc vào giai đoạn quả chuối được hái, tùy thuộc nơi trồng và loại chuối được trồng. Các nhà nghiên cứu tạm đưa ra ý kiến: Một khẩu phần ăn có chuối xanh chắc chắn giúp tránh được dạ dầy bị loét” (Thông tin khoa học kỹ thuật 424/1988).

ĐINH LĂNG

Đinh lăng 

 hay cây gỏi cá, nam dương sâm (danh pháp hai phần: Polyscias fruticosa, đồng nghĩa: Panax fruticosum, Panax fruticosus) là một loài cây nhỏ thuộc chi Đinh lăng (Polyscias) của họ Cam tùng (Araliaceae). Cây được trồng làm cảnh hay làm thuốc trong y học cổ truyền.

Đặc điểm 

Cây nhỏ, cao từ 1-2 mét. Lá kép lông chim 2-3 lần, mọc so le, lá chét có răng cưa nhọn. Hoa đinh lăng màu lục nhạt hoặc trắng xám, quả dẹt, màu trắng bạc.

Y học 
Đi sâu vào những cây cùng có họ với nhân sâm (Panax ginseng) làm thuốc bổ, qua rất nhiều năm nghiên cứu và thử nghiệm. Viện y học Quân đội Việt Nam đã tìm ra cây đinh lăng với những tính chất của nhân sâm. Qua nghiên cứu và qua thực nghiệm của Viện y học Quân đội, kết quả nghiên cứu đã xác nhận rễ cây đinh lăng có tác dụng làm tăng cường sức dẻo dai và nâng cao sức đề kháng của cơ thể, chống được hiện tượng mệt mỏi, làm cho cơ thể ăn ngon, ngủ yên, tăng khả năng lao động và làm việc bằng trí óc, lên cân và chống độc. Đinh lăng được dùng chủ yếu là phần lá và rễ. Rễ đinh lăng được thu hái vào mùa đông, ở những cây đã có từ 4-5 tuổi trở lên, cỡ độ tuổi này, rễ mới có nhiều hoạt chất. Khi đào lấy rễ, rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với góc thân. Rễ nhỏ thì dùng cả, nếu rễ to thì dùng phần vỏ rễ. Thái nhỏ, phơi khô chỗ râm mát, thoáng gió để bảo đảm mùi thơm của dược liệu và bảo đảm hoạt chất của rễ. Khi dùng, để nguyên hoặc tẩm rượu gừng 5% rồi sao qua, tẩm thêm 5% mật ong, sao vàng thơm. 

Tính chất dược liệu: 

có vị đắng, ngọt, tính mát, mùi thơm, không độc, được dùng với các dạng như sau: Ngâm rượu: Rễ Đinh lăng khô, sao khi đã thu hái "không sao tẩm" 150gr tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu có độ cồn từ 35-40o trong 7-10 ngày. Thỉnh thoảng lắc đều. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 5-10ml, uống trước bữa ăn độ 30 phút. Thuốc bột và thuốc viên: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm (150gr) tán nhỏ, rây mịn, ngày uống 0,5 đến 1gr. Trộn với mật ong, vo thành viên, mỗi viên độ 0,25-0,50gr. Ngày uống 2-4 viên chia làm 2 lần, trước bữa ăn độ 30 phút. Thuốc hãm: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm (10-15gr) hãm với nước sôi như hãm với nước chè, uống nhiều lần trong ngày. Nói chung rễ Đinh lăng tăng cường sinh lực, dẻo dai, tăng cường sức chịu đựng của cơ thể.

Trong y học cổ truyền Việt Nam, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã dùng rễ đinh lăng sao vàng, khử thổ, sắc cho phụ nữ uống sau khi sinh đẻ để chống đau dạ con và làm tăng tiết sữa cho con bú. Lá đinh lăng được dùng theo kinh nghiệm dân gian, chống bệnh co giật cho trẻ em, lấy lá non và lá già phơi khô đem lót vào gối hoặc trải giường cho trẻ nằm. Thân cành Đinh lăng sắc uống với liều từ 20-30 g, chữa được bệnh đau lưng, mỏi gối, tê thấp, dùng phối hợp với rễ cây xấu hổ (ngủ ngày), cúc tần, cam thảo dây. Đinh lăng còn được dùng để chữa ban sởi, ho ra máu, kiết lỵ. Phối hợp với sữa ong chúa làm thuốc bổ là rất tốt. Chú ý: Không được dùng rễ đinh lăng với liều cao, sẽ bị say, có hiện tượng mệt mỏi đối với cơ thể. Lá non đinh lăng còn được dùng làm rau ăn sống, làm gỏi cá v.v... và cũng là vị thuốc bổ tốt cho cơ thể

BA GẠC


BA GẠC

Tên khác:
Ba Gạc lá to, Ba Gạc lá mọc vòng, La phu mộc, Lạc tọc (1 rễ - vì cây chỉ có 1 rễ - Cao Bằng), San to ( Ba chạc - vì cây có 3 lá, chia 3 cành - Sapa).
Tên khoa học:
 Rauwolfia Verticillata (Lour) Baill.
Họ khoa học:
Trúc đào (Apocynaceae).
-Mô tả:
Cây thấp, cao 1-1,5m, thân nhẵn, có nốt sần. Lá mọc vòng 3 lá một, có khi 4-5 lá, hình mác, dài 6-11cm, rộng 1,5-3cm. Hoa hình ống, mầu trắng, phình ở họng, mọc thành xim, tán ở kẽ lá. Quả đôi, hình trứng, khi chín mầu đỏ tươi. Toàn cây có nhựa mủ.
Mùa hoa:
Tháng 4-6. Mùa quả: tháng 7-10.
-Địa lý:
Mọc hoang, có nhiều ở Cao bằng, Lạng sơn, Vĩnh phú.
-Thu hái:
Vào mùa thu, đông, đào rễ về, rửa sạch đất, phơi hoặc sấy khô. Cần chú ý bảo vệ lớp vỏ vì lớp vỏ chứa nhiều hoạt chất nhất.
-Bộ phận dùng:
Rễ và vỏ rễ.
-Bào chế:
Có thể dùng tươi, khô hoặc nấu thành cao.
-Thành phần hóa học:
Trong rễ và lá có Alcaloid (0,9-2,12% ở rễ, 0,72 - 1,69 ở lá) trong đó quan trọng nhất là 1 Alcaloid gọi là Rauwolfia  A, công thức thô C25H28N2O2, còn có Reserpin, Ajmalin, Ajmalixin và secpentin (theo NCTVVTV.Nam và Dược Liệu).
-Tác dụng dược lý:
+ Đối với huyết áp: dùng nước sắc Ba Gạc nghiên cứu trên thỏ và chó thấy có tác dụng giảm áp rõ với liều 0,5/kg thân thể súc vât (Bộ môn sinh lý đại học y dược Hà Nội 1960).
+Đối với tim: trên tim ếch cô lập và tại chỗ thấy nước sắc Ba Gạc làm chậm nhịp tim(do Ajmalin).
 Trên hệ mạch ngoại biên của thỏ không thấy có tác dụng trên mạch máu ngoại biên.
+Trên ruột thỏ cô lập thấy liều nhẹ làm tăng nhu động ruột.
+Trên hệ thần kinh trung ương thấy không làm giảm sốt.
+Có tác dụng trấn tĩnh, gây ngủ (do Reserpin, Retxinamin).
Theo ‘Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam’:
*Reserpin được coi là Alcaloid quan trọng nhất, đại biểu cho dược tính của Ba Gạc. Hai tác dụng dược lý quan trọng của Reserpin được xử dụng trong điều trị là hạ huyết áp và an thần. 
Reserpin làm hạ huyết áp cả trên súc vật gây mê hoặc không gây mê. Tác dụng này xuất hiện chậm và kéo dài.cơ chế tác dụng hạ áp là do làm cạn dần kế hoạch dự trữ chất dẫn truyền trung gian Noradrenalin trong các dây thần kinh giao cảm, được coi như hiện tượng cắt hệ thần kinh giao cảm bằng hóa chất. Reserpin không có tác dụng làm liệt hạch, có tác dụng làm chậm nhịp tim, làm dãn các mạch máu dưới da.
* Đối với thần kinh trung ương, Reserpin có tác dụng ức chế, gây trấn tĩnh rõ, giông là các dẫn chất Phenothiazin
* Đối với mắt, Reserpin có tác dụng thu nhỏ đồng tử 1 cách rõ rệt (là 1 trong những triệu chứng sớm nhất sau khi dùng thuốc).
Reserpin còn làm sa mi mắt, làm thư dãn mi mắt thứ 3 (Nictitating membrane) của mèo và chó.
*Đối với hệ tiêu hóa: Reserpin làm tăng nhu động ruột và bài tiết phân.
* Đối với  thân nhiệt: sau khi dùng Reserpin, có sự rối loạn về điều hòa thân nhiệt.
* Đối với hệ nội tiết: Reserpin có tác dụng kích thích vỏ tuyến thượng thận giải phóng các Corticoid. Có tác dụng kháng lợi niệu yếu. Trên chuột cống cái, Reserpin làm ngừng chu kỳ động dục, ức chế sự phóng noãn. Trên chuột đực, ức chế sự phân tiết Androgen.
* Độc tính của Reserpin:
. Liều chịu đựng được bằng đường uống đối với súc vật: 10-2000mg/kg.
. LD50 bằng đường tiêm tĩnh mạch trên chuột cống trắng: 28 ± 1,6mg/kg, bằng đường uống trên chuột nhắt là 500mg/kg.
-Chủ Trị: Các chế phẩm từ Ba Gạc được dùng điều trị bệnh huyết áp cao và 1 số bệnh tâm thần gồm Reserpin, Alcaloid toàn phần, cao và bột rễ.
-Đơn thuốc kinh nghiệm:
*Reserpin: viên nén 0,0001g, 0,00025g và 0,0005g. Thuốc tiêm 5mg/2ml.
*Viên Rauviloid (2mg Alcaloid toàn phần của R.Serpentina), liều dùng cho bệnh huyết áp cao là 2-4mg/ngày.
*Viên Raudixin (bôt rễ R.Serpentina) 50-100mong, liều dùng trung  bình hàng ngày là 200-400mg.
-Kiêng kỵ:
Không nên dùng Reserpin và các chế phẩm từ Ba Gạc trong các trường hợp dạ dầy tá tràng bị loét, nhồi máu cơ tim, hen suyễn ... (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).