PHONG PHÒNG - MẬT
ONG
Tên
khoa học: Mel.
Nguồn
gốc: Mật ong là một chất lỏng, hơi sền sệt, vị ngọt do nhiều giống ong hút mật
của nhiều loại hoa đem về tổ chế biến cô đặc mà thành. Có nhiều giống ong cho
mật ong: giống Apis (A.mellifica, A.chinensis...), giống maligona... Tại Lao
Cai (Sa Pa), có loại ong ruồi (ong nho) cho thứ mật ong trắng và ong khoái (to
hơn) cho thứ mật ong màu vàng. Ong thuộc họ ong (Apidae), bộ cánh mỏng
(Hymonopterao) Phẩm chất: phẩm chất mật ong thay đổi tuỳ theo tính chất các hoa
và thức ăn của ong. Có loại mật ong độc vì ong hút mật của các cây độc (phụ tử,
đỗ quyên), có người ăn mật ong bị say cũng do nguồn gốc này. Mùivà Vị của mật
ong cũng như giá trị của nó phụ thuộc vào các loại hoa có trong vùng. Mật ong
Lạng Sơn, Phú Thọ được nổi tiếng nhưng chưa được nghiên cứu kỹ.
Nói
chung phải thơm quánh, không chua, màu có thể nâu hay vàng, không bị màu rỉ
thùng sắt, nếm thấy ngọt gắt ở cổ một lúc thấy khát nước, nhỏ một giọt vào giữa
gan bàn tay hay lên tờ giấy thấm, giấy bản, giọt mật vẫn đứng tròn nguyên không
loang là tốt.
Thứ
có đọng như cát ở dưới thùng là xấu.
Thuỷ
phần từ 14 - 20%, quá nữa sẽ chua.
Mật
ong ở nước ta có khi bị giả mạo bằng nước đường, có khi bằng cách cho ong ăn
mật mía để nhả ra mật ong có rất nhiều saccarose.
Thành
phần. hoá học: có lẫn lộn ba thứ: glucose, levulose, trên 70%, ít đường mía
(saccharose) dưới 3%; các chất men, albumin, acid hữu cơ, các chất vô cơ, các
chất phân hoá tố, các chất thơm và nhất là các sinh tố A, B, C, D...
Tính
vị: vị ngọt,
tính bình.
Quy
kinh: Vào kinh Tâm, Tỳ,
Phế, Vị và Đại trường.
Tác
dụng: bổ trung tiêu, ích
khí, nhuận táo.
Chủ
trị: trị ho, tim, bụng
bị đau, xích bạch lỵ, đại tiện bí, khó
đẻ,
sản phụ khát nước, trị bỏng, lở âm đạo, hóc xương cá. Còn dùng làm thuốc bổ
toàn thân, chế thuốc viên hoàn.
Liều
dùng: Liều dùng: Ngày dùng 12 - 40g hoặc hơn nữa.
Tây
y: chữa loét dạ dày, tá tràng.
Kiêng
ky: Tỳ Vị hư hàn
(tiêu chảy ) và hay đầy bụng thì không nên dùng.
Cách
bào chế.
Theo
Trung Y: Nấu cách thuỷ cho đến khi nhỏ một giọt vào ly nước mà không tan thì
dùng càng tốt mà không nhiễm hoá độc.
Theo
kinh nghiệm Việt Nam: Mật ong dùng để ăn và làm thuốc không chế biến; nhưng
để làm thuốc cao nước, thuốc hoàn tán, tẩm sao thuốc phiến thì làm như
sau: Mật ong thường có lẫn tạp chất: ruồi làng, xác ong, chân, cánh ong và kiến
v v độ loãng và đặc khác nhau nên phải tuỳ từng bài thuốc mà chế biến lại cho
thích hợp.
+
Thuốc cao nước: trong bài thuốc cao nước có mật ong thì lấy mật ong nhẹ đun sôi
lăn tăn, bọt nổi lên vôi các tạp chất thì vớt đi, đến khi không thấy bọt nổi
nữa thì thôi. Lọc qua vải rây thường. Nếu để còn bọt thì thuốc sau này có thể
bị chua.
+
Thuốc hoàn: đối với những bài thuốc có những vị hút nước như Long nhãn và Thục
địa thì mật ong phải cô thành châu. Lấy mật ong đun sôi lăn tăn, vớt bỏ cho đến
hết bọt nổi lên. Lọc qua rây thường rồi cô đến khi một giọt mật ong vào ly nước
không tan là được.
+
Đối với những bài thuốc có vị hút nước nhiều hơn thì làm như trên nhưng cô lại
còn một nửa.
+
Đối với những bài thuốc dùng thúng lắc, hay máy vo viên mà có mật ong thì thêm
nước vừa đủ cho loãng ra, đun sôi bỏ bọt, rồi lấy trọng lượng mật ong bằng 1/3
trọng lượng bột của bài thuốc (thuốc bắc) hoặc 1/2 trọng lượng thuốc (thuốc
nam) để làm hồ.
+
Thuốc phiến: thuốc phiến thường cũng có vị phải tẩm mật ong (Hoàng kỳ, Tang
bạch bì), thường 1kg dược liệu dùng 100g mật ong, thêm nước sôi vừa đủ
cho loãng ra, lọc qua rây nếu có tạp chất, với hoàng kỳ thì thêm 200ml nước,
với tang bạch bì thì nhiều nước hơn.
Bảo
quản: dễ hút ẩm, sinh
chua, dễ hút các mùi xung quanh.
Cần
đựng trong bình lọ nút kín, không đựng thùng sắt, tránh xa các mùi thối, ét
xăng, tránh sâu bọ ruồi nhặng, chuột, thằn lằn.