UY LINH TIÊN
Tên
thuốc: Radix Clematis.
Tên
khoa học: Clematis sinensis
Osbeck
Họ
Mao Lương (Ranunculaceae)
Bộ
phận dùng: rễ. Mỗi năm mọc
nhiều rễ, lâu năm mọc thành một khóm rậm rạp, có hàng trăm sợi, dài đến 60cm.
Dùng
thứ rễ nhiều, rậm dài, đen sẫm, nhục trắng, chất chắc (tục gọi ‘Chiết ước Uy
linh tiên’) là tốt nhất, còn thứ khác nữa nhưng không dùng làm thuốc được.
Ở
Việt Nam có hai cây thường dùng thay Uy linh tiên Trung Quốc là cây Kiến cò hay
Bạch hạc (RhiraCan communic Nees, họ ACan thaceae). Ở liên khu IV có loại
Uy linh tiên dây leo Thunbergia (cùng họ), lá hình quả tim, hoa trắng, rễ từng
chùm như dây Uy linh tiên Trung Quốc (cần sưu tầm, nghiên cứu thêm).
Thành
phần hoá học:
có Anemonin và Anemonon.
Tính
vị: vị cay, mặn,
tính ôn.
Quy
kinh: Vào kinh Bàng
quang.
Tác
dụng: hành khí, trừ
phong, thông kinh lạc.
Chủ
trị: trị phong tê, đau
nhức, lợi tiểu, tích trệ.
-
Phong thấp biểu hiện như đau khớp, đau và tê cứng các khớp và suy yếu vận động:
Dùng Uy linh tiên với Độc hoạt, Tang kí sinh và Đương qui.
-
Hóc xương cá trong họng: Nước sắc Uy linh tiên uống cùng với dấm.
Liều
dùng: Ngày dùng 6 - 12g.
Dùng
tươi giã nát đắp ngoài trị sang lở và hắc lào.
Cách
bào chế.
Theo
Trung Y: Rửa sạch, bỏ tạp chất, ngâm nước cho mềm, vớt ra cắt từng khúc 2cm,
phơi khô dùng; hoặc tẩm rượu, ủ thấu, sao nhỏ lửa cho khô, để nguội dùng.
Theo
kinh nghiệm Việt Nam: Bỏ tạp chất, rửa sạch, ủ kín độ 12 giờ (không được ngâm
nước) cắt ra từng khúc 3cm phơi khô.
Tuỳ
từng trường hợp tẩm rượu, giấm, mật, gừng rồi sao qua.
Bảo
quản: để nơi khô ráo.
Kiêng
kỵ: huyết hư gân co,
không phong thấp thực tả thì không nên dùng.