Hải Thượng Lãn Ông
("Ông già lười Hải
Thượng") là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (11 tháng 12, 1720 – 1791).
Ông tinh thông y học, văn chương, là danh nhân Việt Nam thế kỉ XVIII được nhiều
người kính trọng.
Lê Hữu Trác sinh ngày 11 tháng 12 năm Canh Tý 1724 tại thôn Văn Xá, làng Liêu
Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (từ năm 26 tuổi
đến lúc mất) gắn bó với ở quê mẹ thôn Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương
Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh). Ông là con của ông Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng. Là người con thứ bảy
nên ông còn được gọi là cậu Chiêu Bảy.
Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều),
anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam
giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước
Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu
Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa
chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân.
Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một
năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, "nghiên cứu
trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức
học của mình" (Tựa "Tâm lĩnh").
Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang
bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối
sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về
nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi
giáp" theo đuổi chí hướng mới.
Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc
vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu" (Lời tựa
"Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm
nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ
An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc,
nhiệt tình chữa khỏi.
Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc
"Phùng thị cẩm nang" và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần
Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông. Vốn là người
thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học,
nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết
chí học thuốc.
Ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu "Hải Thượng Lãn ông".
Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng
là xã Bầu Thượng quê mẹ. "Lãn ông" nghĩa là "ông lười", ngụ
ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của
danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình
yêu thích gắn bó.
Mùa thu năm Bính Tý (1754), Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì
ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một
số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa
để đọc sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), vừa học tập và chữa bệnh. Mười
năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu.
Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất
sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim
quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh
phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những
sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc
kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Y tôn
tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y
thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học
và tư tưởng của Hải Thượng Lãn ông.
Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), ông nhận được lệnh chúa triệu về
kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức yếu lại quyết chí xa lánh công danh, nhưng do
theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm mà bộ "Tâm lĩnh" chưa in được,
"không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng
biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được" ("Thượng
kinh ký sự"), ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ
sách. Vì vậy ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh, từ giã gia đình, học trò rời
Hương Sơn lên đường.
Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh
Sâm khen "hiểu sâu y lý" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng
lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không
vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở
ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế
tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu
lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, kết quả để sớm thoát khỏi
vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi.
Thời gian ở kinh đô, ông nhiều lần xin về thăm cố hương Hải Dương, nhưng mãi đến
tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Không lâu sau, ông lại có
lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và
cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông.
Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Mình tuy không phải đã bỏ quên việc
ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được"
("Thượng kinh ký sự").
Sau khi Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh
Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó lòng khỏe được. Do
nóng lòng trở về Hương Sơn, nhân có người tiến cử một lương y mới, Lê Hữu Trác
liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn ông về đến
Hương Sơn.
Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh ký sự" bằng chữ Hán tả quang
cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của
nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương
Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Tập ký ấy
là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều:
chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập
Vân khí bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Tâm lĩnh". Hải Thượng
Lãn ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc,
ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại.
Ông qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại Bầu Thượng, (nay là
xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở
khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn.
Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, kế thừa
xuất sắc sự nghiệp "Nam dược trị Nam nhân" của Tuệ Tĩnh thiền sư. Ông
để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 22 tập, 66 quyển
chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh là công trình y học xuất sắc
nhất trong thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh
ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.