MẠCH LÝ Y HỌC CỔ TRUYỀN
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRONG PHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH ĐÔNG Y.
1- Thời Gian Xem Mạch
Chẩn mạch thường vào lúc sáng sớm, âm
khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc
mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn, do đó, có thể tìm thấy mạch bệnh.Tuy nhiên
nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cần phảI
chẩn mạch vào lúc sáng sớm.
- Trước khi chẩn mạch, nên để cho người bệnh nghĩ 1 lát
cho khí huyết được điều hòa.
- Không nên xem mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói
qúa hoặc mới uống rượu, đi xa đến mà mệt mỏi...
- Ngoài ra, ống tay áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh
chung quanh ồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến việc chẩn mạch.
2- Tư Thế Lúc Xem Mạch.
Người bệnh nên ngồi thẳng thắn,
tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên, bàn tay để ngửa cho huyết
mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đến mạch.
Vì nếu người bệnh nằm nghiêng thì cánh
tay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co tay lại thì bàn tay bị bế
tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn xuống làm mạch bị ứ trệ,
nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu co cơ thể lại thì khí bị
nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị nhiễu loạn mà mạch chạy
nhanh...”
Thầy thuốc nên ngồi nghiêng đối với người bệnh, dùng tay
trái để chẩn mạch ở tay phải người bệnh và ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ở
tay trái.
3- Định Hơi Thở
Phương pháp chẩn mạch cốt ở tâm hư tĩnh.Thầy
thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1 hơi thở ra, hít vào tương ứng
với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn này, tập trung chú ý vào các
ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch tượng và số mạch đếm của người
bệnh.
4- Cách Đặt Tay Chẩn Mạch
Khi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ
quan (mé trong chỗ xương cao-ngang với lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay
2 (trỏ) và 4 (áp út) phía trước và sau thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên)
là bộ thốn khẩu, ngón tay sau (dưới) là bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài
thì đặt ngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn thì đặt các ngón tay khít nhau”.
Khi đặt ngón tay (xem mạch) cần phải để đầu
ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của da ở đầu các ngón tay đang xem mạch
không giống (nhạy bén) như nhau... vì vậy, khi cần chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ
(chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợi chỉ) để sờ, ấn.
Ba ngón tay của người ta dài ngắn không bằng
nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằng nhau, đốt ngón này ngang đốt ngón kia
mới có thể chẩn mạch được. Nhưng da thịt đầu 3 ngón tay thì ngón trỏ nhạy cảm
nhất, ngón giữa da dầy, ngón thứ 4 lại dầy và kém nhậy cảm hơn. Vì vậy, phải
dùng cạnh của đầu ngón tay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục (mắt của ngón tay) ấn
lên sống mạch”.
Điều quan trọng hơn nữa là không nên dựa vào
mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầm với mạch đập của người bệnh, vì ở
đầu ngón tay của thầy thuốc cũng có động mạch.
Sau khi đặt tay đúng vị
trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biết vận dụng năng lực nặng nhẹ và di
chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng.
Chẩn mạch có 3 điều chủ yếu là
Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩn mạch gọi là Án, không
nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm.
Hiện nay các nhà nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau:
+ Sơ (Khinh) Án: Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của
người bệnh để chẩn bệnh ở phủ.
+ Trung Án: Ấn nhẹ tay xuống 1 chút để biết về Vị khí.
+ Trầm (Trọng) Án: Ấn nặng tay xuống 1 ít để chẩn bệnh ở
tạng.
Cách chung, khi chẩn (xem) mạch, nên:
· Xem chung cả 3 bộ (Tổng Khán) để nhận định
về tình hình chung (thường được dùng nhất).
· Xem riêng từng bộ phận (Đơn Khán) để đánh
gía riêng từng cơ quan, tạng phủ.
Ngoài ra, theo các nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần
phải chú ý đến 3 yếu tố là Vị Khí, Thần và Căn.
5- Vị Khí:
· Có Vị khí thì sống, không có Vị khí thì
chết, vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc.
· Muốn xét diễn tiến của bệnh tốt hoặc
xấu nên lấy Vị khí làm chủ. Cách xét này về vị khí như sau: “Thí dụ, hôm nay
mạch còn hòa hoãn mà ngày mai lại Huyền, Cấp thì biết rằng tà khí đang tiến
triển, tà khí càng tiến, bệnh càng nặng. Hoặc hôm nay mạch rất Huyền, Cấp nhưng
ngày mai lại thấy hòa hoãn thì biết là Vị khí đã đến, Vị khí đến thì bệnh nhẹ
dần. Nếu như trong chốc lát mà mới đầu thấy mạch Cấp mà sau đó Hoãn là Vị khí
đến, lúc đầu Hoãn mà sau đó Cấp là Vị khí mất”.
6- Thần:
Gọi là thần của mạch tức là mạch đi nhu hòa. Thí
dụ như bắt được mạch Vi Nhược thì tuy là Vi Nhược nhưng không đến mức vô lực là
có thần, hoặc bắt được mạch Huyền Thực mà trong cái Huyền Thực vẫn thấy nhu
hòa, là có thần. Tóm lại, mạch có Vị khí, có Thần đều là có hiện tượng xung
hòa. Có Vị khí là có Thần khí, vì vậy, trên lâm sàng, cách chẩn đoán Vị khí và
Thần như nhau”.
7- Căn:
- Mười hai kinh mạch trong cơ thể đều nhờ ở
chỗ động khí của Thận mà phát sinh. Thận khí còn cũng như cây có gốc (căn) cành
lá tuy khô mà gốc chưa khô thì có hy vọng sống được. Thận khí chưa tuyệt thì
mạch nhất định có căn. Mạch Trầm để chẩn tạng thận, bộ xích để chẩn về Thận,
mạch ở bộ xích mà Trầm, có lực là dấu hiệu mạch có căn.
Khi chẩn mạch phải chú ý đến sáu yếu tố:
Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, ông viết: “Chẩn mạch nên biết sáu chữ: Thượng,
Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, không hiểu sáu chữ đó thì không phân biệt được âm dương
hư thực. Thượng, Lai, Chí là dương, Hạ, Chỉ là âm. Thượng là từ bộ xích lên tới
thốn khẩu đến bộ xích, âm sinh ở dương, Lai là từ trong thịt xuất ra chỗ trong
da ngoài, sự tăng lên của khí. Khứ là từ chỗ trong da ngoài thịt đi vào thịt
vào xương, sự giáng xuống của khí. Ứng là Chí, nghỉ là Chỉ. Câu danh ngôn sáu
chữ (Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ) của Hoạt Bá Nhân, các y gia của các thời
đại đều cho rằng đã tìm được điều cốt yếu của việc chẩn mạch.
· Thượng, Hạ là chỉ mạch chí thông suốt từ bộ
xích đến bộ thốn, chỉ chẩn sát 1 bộ mà phải chú ý đến tình hình cả ba bộ thốn,
quan, xích “Ở bộ thốn, mạch Hạ không đến bộ quan là dấu hiệu dương tuyệt, ở bộ
xích, mạch Thượng không tới bộ quan là âm bị tuyệt”.
· Lai, Khứ là chỉ sự thăng giáng của mạch.
Thăng giáng không cấp bách, nhẹ nhàng, điều hòa là mạch tượng của mạch không có
bệnh. Mạch Lai mà Tật, mạch Khứ mà Từ là dấu hiệu trên thực dưới hư (hoặc trong
hư ngoài thực). Mạch Lai mà Từ, Mạch Khứ mà Tật là dấu hiệu trên hư dưới thực (hoặc
ngoài hư trong thực).
· ‘Chí Chỉ’ là chỉ vào chí và trong thời gian
ngắn hay dài của các bộ mạch. Chí để chẩn mạch đến, thời gian ngắn hoặc dài của
các bộ mạch. Chỉ thời gian ngắn dài ở bộ thượng có thể xét sự thịnh suy của
chân dương để biện về yếu mạch của chân âm. Chỉ thời gian dài ngắn ở bộ hạ có
thể xét sự thịnh suy của chân âm để biện về sự mạch yếu của chân dương”.
8- Không nên câu nệ về tính chất đặc thù của
từng mạch.
Thí dụ: Khi nói đến biểu là phải quy về mạch Phù, nhiệt
là Sác, lý là Trầm, hàn là Trì, mạch Huyền, Cường là Thực, Tế, Vi là Hư... tuy
nhiên, phải cần lưu ý đến các yếu tố chân, giả.
“Mạch Phù tuy thuộc về biểu nhưng hễ âm hư, huyết
thiếu, khí trung tiêu suy tổn sẽ thấy mạch Phù mà vô lực, vì vậy, không thể cho
rằng mạch Phù hoàn toàn liên hệ với phần biểu. Mạch Trầm tuy thuộc về phần lý
nhưng hễ ngoại tà mới cảm mà đã vào sâu thì hàn tà bó lấy kinh lạc, mạch khí
không thông đạt được, sẽ thấy mạch Trầm, vì vậy, không thể cho rằng mạch Trầm
hoàn toàn thuộc về phần lý. Mạch Sác là nhiệt, nhưng chân nhiệt chưa hẳn đã là
Sác. Chứng hư tổn, âm dương đều bị khốn quẩn, khí huyết hỗn loạn, hư nhiều,
mạch Sác cũng nhiều, vì vậy không thể nói là Sác hoàn toàn thuộc nhiệt được.
Trì là hàn nhưng bệnh thương hàn, tà khí mới lui, nhiệt chưa hết, mạch phần
nhiều là Trì Hoạt, vì vậy đừng cho rằng Trì hoàn toàn là hàn. Huyền, Cường
thuộc Thực nhưng chân âm, vị khí hư quá và các chứng âm dương quan cách (bị
ngăn trở), mạch sẽ Huyền, Cường, vì vậy Huyền cũng không hẳn là Thực, Mạch Vi,
Tế thuộc hư trường hợp bị đau quá, khí bị bế, vinh vệ bị ủng trệ không thông,
mạch sẽ phải ẩn nấp (Phục), vì vậy mạch Phục không phải hoàn toàn là Hư... từ
đó có thể suy ra... trong các mạch đều có vấn đề”.
9- Sự Khác Nhau Lúc Mới Đặt Tay Vào Mạch Và
Lúc Xem Mạch Một Lúc Thật Lâu.
Có khi mạch mới xem và xem một lúc lâu có sự khác biệt.
Thí dụ: Lúc mới xem thấy mạch nổi to, xem một lúc thấy mạch chìm lặng. Hoặc mới
xem thấy mạch mềm nhũn, xem lâu lại thấy bật dưới tay. Có khi lúc đầu thấy mạch
Huyền, một lúc sau lại là Hoãn.“Khi chẩn mạch loại khách tà bạo bệnh mà mạch
Phù là đúng. Nếu bệnh đã lâu, sức đã hư tổn, nên chẩn căn khí làm gốc. Nếu thấy
Phù, Đại, ấn tay lâu thấy chìm mất, là hiện tượng chính khí quá hư, không cần
hỏi là bệnh lâu hoặc mới nhiễm, tuy rằng chứng mà thấy nóng nhiều, phiền nhiễu
do chính khí suy không tự chủ được mà hư dương thoát ra ngoài. Khi mới xem mạch
thấy Nhu, Nhuyễn, bắt đầu thấy bật dưới tay là dấu hiệu bệnh ở phần lý, phần
biểu không bệnh. Không phải tạng khí bị thụ thương thì là kiên tích ẩn phục bên
trong, trường hợp này không thể cho đó là mạch Trầm mà lầm là bị hư hàn. Mới
xem thấy mạch hơi Huyền, xem lâu lại thấy hòa hoãn, hễ bệnh đã lâu thì sắp
khỏi, khí huyết tuy kém nhưng tạng khí chưa bại. Cách chung, mạch của người
bệnh lúc mới đặt tay vào tuy thấy vô lực hoặc Huyền Tế, không hòa hoãn, xem lâu
trên mười chí lại thấy điều hòa dần, thì bệnh có thể chữa. Nếu mới xem mạch
thấy hòa hoãn nhưng xem lâu lại thấy Vi, Sác không ứng tay hoặc dần dần Huyền,
cứng (ngạnh) thì bệnh khó chữa”.
10- Bỏ Mạch Theo Chứng-Bỏ Chứng Theo Mạch.
Thông thường thì mạch và chứng tương ứng với nhau, nhưng
có nhiều trường hợp mạch và chứng lại không đi đôi với nhau như dương chứng mà
lại thấy mạch âm hoặc âm chứng mà thấy mạch dương... Sách ‘Y Biên’ giải thích
rõ như sau: “Phàm bệnh mà và chứng không hợp thì một bên thật, một bên giả, cần
phân biệt kỹ. Như bên ngoài tuy phiền nhiệt mà thấy mạch Vi, Nhược thì hư hỏa,
hư tướng, lại chịu được công phạt sao?. Nên theo mạch mà chữa chứng chân hư chứ
không theo chứng là giả tượng. Hoặc trường hợp bệnh vốn không có phiền nhiệt mà
thấy mạch Hồng, Sác thì không phải là hỏa tà. Bệnh vốn không có trướng đầy, ứ
trệ mà thấy mach Huyến, Cường thì không phải là chứng thực ở bên trong. Không
nhiệt, không trướng lại có thể chịu được phép tả hay sao?. Nên theo chứng hư
chứ không theo mạch giả thực... Nếu là tà làm thương tổn bên trong hoặc thực
trệ, khí trệ mà bụng trên đau thắt đến nỗi mạch Trầm, Phục hoặc Xúc hoặc Kết,
đó là tà bế tắc kinh lạc gây ra. Đã có chứng thực làm căn cứ thì mạch hư tức là
gỉa, trường hợp này nên theo chứng chứ không theo mạch. Hoặc như bệnh thương
hàn, tay chân gía lạnh, rét run mà mạch thấy Hoạt, Sác, đó là do nội nhiệt làm
cách âm. Làm sao có thể biết được? Vì bệnh truyền từ kinh này sang kinh khác
chứ không phải trực trúng âm kinh, từ chứng nhiệt chuyển sang hàn. Đã có
mạch Sác, Hoạt làm căn cứ thì ngoại chứng là giả hư, cũng theo mạch chứ không
theo chứng vậy”.
Trường hợp nào nên bỏ mạch mà theo chứng, Lê Đức Thiếp
trong sách ‘Định Ninh Tôi Học Mạch’ đã nhận định:
Nên bỏ mạch theo chứng trong các trường hợp sau:
- Những bệnh mà nhận xét về mạch khó chính xác như
những người không thể chỉ căn cứ vào mạch hoặc những người không có bộ mạch để
xem.
- Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu
có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ.
- Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu
có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ.
- Những người mạch tay trái thường rất nhỏ hơn tay phải
hoặc ngược lại.
- Những người có mạch Phản Quan.
- Những người không may bị cụt một hoặc cả hai tay.
- Những người bị thương ngay vị trí để xem mạch
11. Mạch phản quan
Có người, không tìm thấy mạch ở bộ vị thốn khẩu như bình
thường mà lại thấy mạch ở phần trên đỉnh của bờ sau xương quay (ngang
huyệt Liệt Khuyết) đi dọc xuống vùng lõm ở hố lào (huyệt Dương Khê), gọi là
mạch PHẢN QUAN. Gặp loại mạch này, khi chẩn mạch, phải đặt bàn tay sấp xuống
mới bắt được mạch. Loại mạch này có thể do bẩm sinh hoặc do bị chấn thương gây
ra.. .
12. Mạch với kỳ kinh bát mạch
¨ Mạch ở tay trái đi từ bộ xích hơi chếch lên
bộ thốn và Trầm là mạch ÂM DUY bị bệnh. - Biểu hiện: đau trong tim (mạch Âm Duy
đi vào phần âm, chủ về phần vinh, vinh là huyết, huyết thuộc về tâm, vì vậy đau
trong tim).
¨ Mạch ở bộ xích thấy lúc thì co vào, lúc duỗi
ra và có vẻ Trầm Tế là ÂM KIỀU MẠCH bị bệnh. Biểu hiện: dương khí không đủ mà
âm khí vượng, thường hay buồn ngủ, phía ngoài bắp chân dễ chịu mà phía trong
căng thẳng (theo Nan thứ 29: dương hoãn mà âm cấp).
¨ Mạch ở tay bên phải đi từ bộ xích hơi chếch
lên bộ thốn và Phù là mạch DƯƠNG DUY bị bệnh. - Biểu hiện: thấy nóng, rét
(lạnh), (mạch Dương Duy đi vào phần dương, chủ về phần vệ, vệ là khí, khí
ở biểu vì vậy thấy nóng lạnh).
¨ Mạch ở 2 bộ thốn thấy lúc thì co vào, lúc
duỗi ra và có vẻ Khẩn Tế là mạch DƯƠNG KIỀU bị bệnh. - Biểu hiện: âm khí suy mà
dương khí thịnh sinh ra không ngủ được, phía trong bắp chân thì dễ chịu nhưng
bên ngoài thì lại căng thẳng (Nan thứ 29 (N. Kinh): âm hoãn mà dương cấp).
¨ Mạch ở 2 bộ quan thấy lúc thì co vào lúc
duỗi ra mà có vẻ Hoạt Khẩn là Mạch ĐỚI bị bệnh. Biểu hiện: bụng đầy trướng, eo
lưng đau tê, ớn lạnh như ngồi trong nước, phụ nữ thì bụng dưới đau, kinh nguyệt
không đều, xích bạch đái.
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay để nhẹ mà đều đi Huyền
Trường là mạch ĐỐC bị bệnh. Biểu hiện: Sống lưng cứng, không thể cúi ngưả được,
uốn ván.
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay đi Khẩn Tế mà Trường, ấn
kỹ lại thấy đi như hạt châu chạy liên tiếp là mạch NHÂM bị bệnh. Biểu hiện: đàn
ông thì bị chứng sán khí, đàn bà thì bị xích bạch đái hoặc tích tụ
ở bụng dưới (trưng hà).
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay phải ấn thật mạnh mới thấy
đi Huyền Trường là mạch XUNG bị bệnh. Biểu hiện: khí từ bụng dưới xông lên,
bụng trướng, đau.
13- Quan Hệ Giữa Mạch Và Ngũ Hành
Dùng ngũ hành áp dụng vào mạch ta thấy:
Tay Bên TRÁI: Thận thủy (bộ xích) sinh Can mộc (quan),
can mộc sinh Tâm hỏa (thốn).
Tay Bên PHẢI: Mệnh môn hỏa (bộ xích) sinh Tỳ thổ (quan),
tỳ thổ sinh Phế kim (thốn).
14- Mạch Và Khí Huyết
Xét về khí huyết với mạch ta có:
+ Bên trái thuộc Huyết: Thận, Can và Tâm. Thận (tàng
tinh, tinh sinh huyết ) - Can tàng huyết - Tâm chủ huyết.
+ Bên phải thuộc Khí: Mệnh môn (Tam tiêu) Tỳ và Phế. Tỳ
là trung khí - Mệnh môn là nơi chứa nguyên khí - Tam tiêu là đường dẫn khí -
Phế chủ khí. Vì vậy, mạch ở bên phải liên hệ với khí.
15- Quan Hệ Giữa Mạch Và Mùa
Mỗi mùa ứng với một tạng nhất định, dù mùa đó cũng chi
phối toàn thể các mạch khác trong suốt thời gian đó.
+ Mùa Xuân: Mạch Huyền
· Cây cối xanh tốt vào mùa này, màu xanh ứng
với màu của Can, do đó có mạch Huyền (mạch của Can).
· Mùa xuân dương khí bắt đầu phát (thiếu
dương) nhưng khí lạnh vẫn chưa hết, khí cơ còn có hiện tượng ước thúc, vì vậy
mạch tượng thấy đầu thẳng mà dài, giống như giây đàn (Huyền).
+ Mùa Hè: Mạch Hồng
· Cây cối lớn lên, sức nóng của mùa hè bùng
lên, thiêu đốt vạn vật như lửa bùng lên (Hồng).
· Vào mùa này, vạn vật tươi tốt, thịnh vượng,
mạch đến thì thịnh mà đi thì suy, vì vậy sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Câu.
+ Mùa Thu: Mạch Mao
· Mọi vật bắt đầu thu lại, lá cây khô đi và
rụng giống như lông, do đó mạch của mùa thu là mạch Mao.
· Thời điểm này, dương khí bắt đầu suy, thế
mạch đã giảm chỉ thấy Phù. Sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Mao là hình dung thể
mạch đến ứng dưới tay thấy nhẹ như lông (Mao).
+ Mùa Đông: Mạch Thạch
· Mọi vật thu giữ lại, tàng trữ tất cả khả
năng mạnh mẽ của mình để sống qua cái lạnh giá, vì vậy, mạch của mùa đông là
mạch Thạch.
· Mùa đông vạn vật bế tàng, thế đến của mạch
khí trầm mà có sức bật vào ngón tay, sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Thạch là hình
dung mạch đến ứng vào tay có lực cứng như cục đá (Thạch).
+ Tứ Quý: Tứ Quý là chuyển tiếp giữa các mùa, vì vậy
thường mang đặc tính ôn hòa, do đó mạch của Tứ Quý là mạch Hoãn.
16- Quan Hệ Giữa Mạch Và Lục Dâm. (Ngoại Tà)
· Hàn làm hại (thương) Thận vì vậy có mạch
Khẩn.
· Thử làm hại (thương) Tâm vì vậy có mạch Hư.
· Táo làm hại (thương) Phế vì vậy có mạch Sáp.
· Thấp làm hại (thương) Tỳ vì vậy có mạch Nhu.
· Phong làm hại (thương) Can vì vậy có mạch
Phù.
· Nhiệt làm hại (thương) Tâm bào vì vậy có
mạch Nhược.
17- Mạch Và Thất Tình (Nội Nhân)
· Hỷ thương Tâm gây nên mạch Hư.
· Tư thương Tỳ gây nên mạch Kết.
· Ưu thương Phế gây nên mạch Sáp.
· Nộ thương Can gây nên mạch Nhu.
· Khủng thương Thận gây nên mạch Trầm.
· Kinh thương Đởm gây nên mạch Động.
· Bi thương Tâm bào gây nên mạch Khẩn.
18. Mạch Và Nam Nữ
“Mạch của phụ nữ thường nhu nhược (yếu) hơn mạch
của nam giới”.Khi Xem mạch ‘Nam Tả Nữ Hữu’. Xem mạch, phái nam xem bên tay
trái (làm chính), phái nữ xem bên tay phải (làm chính). “Xem mạch phái
nam, mạch tay trái (dương) mạnh hơn tay phải (âm) là dương nhiều hơn âm là
thuận. Ngược lại, mạch tay phải mà mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương
không thuận, tức là người nam đó bị âm thịnh dương suy. Xem mạch người nữ mạch
tay phải (âm) mạnh hơn tay trái (dương) là âm nhiều hơn dương là thuận.
Ngược lại, nếu mạch tay trái mạnh hơn tay phải là dương nhiều hơn âm không
thuận, tức là người nữ đó bị dương thịnh âm suy. Như vậy, việc xem ‘Nam Tả Nữ
Hữu’ chủ yếu chỉ để xem âm dương thuận hoặc nghịch đối với người đó chứ không
nhất thiết phải theo đúng quy cách trên.
Điều chủ yếu trong câu ‘Nam Tả Nữ Hữu’ là chú ý vào hai
bộ xích của cả nam lẫn nữ.
+ ‘Nam dĩ tả xích nhi tàng tinh’ hoặc ‘Nam dĩ tả xích vi
tinh phủ’ (Nam tàng trữ tinh khí ở bộ xích bên tay trái). Xem mạch người nam,
nếu bộ xích tay trái hòa hoãn, có lực thì biết rằng người đó tinh khí sung mãn,
khỏe mạnh. Nếu bộ xích tay trái Trầm, Vi vô lực thì không khỏe...
+ ‘Nữ dĩ hữu xích nhi bào hộ’ hoặc ‘Nữ dĩ hữu xích vi
huyết hải’ (Nữ liên hệ với bào thai và chứa huyết ở bộ xích). Xem mạch người
nữ, nếu bộ xích tay phải hòa hoãn, có lực thì biết rằng tử cung và huyết của họ
tốt. Nếu bộ xích tay phải Trầm, Vi vô lực thì không khỏe