MẠCH KHẨN
- Mạch Khẩn Thuộc loại mạch Dương, Khẩn là
gấp,đi có vẻ gấp và rít vì vậy gọi là Khẩn.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Khẩn tìm ấn dưới ngón tay thấy chạy suốt cả 3 bộ,
ấn vào mạch chạy có dư, nhẹ tay thấy rất Sác, tựa như mạch Hồng, Huyền.Mạch đi
khẩn trương có lực,đi lại như sợi dây bị vặn,Mạch đến gấp dưới tay thấy như kéo
dây thừng.
NGUYÊN NHÂN
Do hàn khí làm ngưng trệ ở trung tiêu không tiết ra
ngoài được, gây trở ngại khí dương, không thông đạt được, dẫn tới hiện tượng
chính và tà chống nhau, gây ra mạch Khẩn.
do sự biến tính của màng huyết quản, hoặc do sự tống
máu ở tim mà sinh ra.
CHỦ BỆNH
Mạch Khẩn chủ chứng đau, chủ về hàn suyễn, ho, phong
giản, đờm lạnh, nôn mửa. Bộ thốn thấy Khẩn là bụng đau lâm râm. Bộ xích thấy
Khẩn là bệnh thuộc âm, bôn đồn, sán khí.
Mạch bộ thốn Khẩn là đầu đau. Bộ quan thấy Khẩn là bên
trong thấy đau. Bộ xích Khẩn là trong người bứt rứt, quanh rốn đau liên miên.
Mạch Khẩn thấy ở chứng hàn, đau.thức ăn ngưng trệ
Mạch Khẩn chủ hàn bế và biểu hư. Phụ nữ mà thấy mạch
Khẩn là kinh nguyệt chậm (thấy sau kỳ). Trẻ nhỏ thấy mạch Khẩn thường bị kinh
phong. Bộ thốn (trái) thấy Khẩn: đầu nhức, hoa mắt, cổ đau, khí bị nghịch. Bộ
thốn (phải) thấy Khẩn: hay sổ mũi, ngực đầy và đau. Bộ quan (trái) thấy Khẩn:
bụng đầy, đau, 2 bên sườn và lưng đau. Bộ quan (phải) thấy Khẩn: ăn uống không
tiêu, bụng đau, nãn mửa. Bộ xích (trái) thấy Khẩn: lưng và bụng dưới đau,
tiểu khó. Bộ xích (phải) thấy Khẩn: hạ tiêu đau.
KIÊM MẠCH
Mạch Thái âm đến thì Khẩn, Đại mà Trường.
Mạch thốn khẩu Phù mà Khẩn. Phù là phong, Khẩn là hàn.
Mạch có Khẩn, Phù, Huyền, Hoạt, Trầm, Sáp, 6 mạch này
gọi là ‘Tàn tặc’, đều là các mạch bệnh.
Trường hợp bị kết hung, ăn uống như thường, kiết lỵ,
mạch bộ thốn Phù mạch bộ quan Tiểu, Trầm, Khẩn là chứng tạng bị kết.
Dương minh bệnh. mạch Phù Khẩn thì sẽ nóng từng cơn,
phát tác có lúc.
Thiếu âm bệnh mạch Khẩn, đến 7-8 ngày sau thì đi lỵ.
Mạch phu dương Phù mà Sáp gọi là chứng phản vị, mạch
Khẩn mà Sáp thì khó chữa.
Bệnh huyết tý Chỉ căn cứ mạch tự Vi, Sáp tại thốn khẩu
và Tiểu Khẩn tại bộ quan thì biết. Thấy mạch Khâu, Động, Vi, Khẩn, đàn ông thì
di tinh, đàn bà thì mộng thấy giao hợp.
Một bên hông sườn đau, phát sốt, mạch Khẩn, Huyền là
hàn. Bụng đầy mạch Huyền Khẩn. Huyền thì vệ khí không vận hành tức là sợ lạnh.
Khẩn thì không muốn ăn. Tà và chính kích bác nhau gây ra chứng hàn sán. Gặp
mạch Khẩn, Đại mà Trì là dưới tim ắt phải cứng, Mạch Đại mà Khẩn là trong dương
có âm. Mạch Khẩn như sợi dây vặn vẹo vô thường đó là có thức ăn cũ không tiêu.
Chứng trường ung thì bụng dưới sưng, có bỉ khối, ấn
thì đau như đứng lâu, tiểu thường hay phát sốt, tự ra mồ hôi mà lại sợ lạnh,
mạch Trì Khẩn là đã thành mủ.
Thái dương bệnh, mạch Phù mà Khẩn, đáng lẽ xương khớp
phải đau nhức nhưng lại không đau, cơ thể lại nặng mà tê buốt, đó là chứng
phong thủy. Mạch phu dương đáng lẽ phải Phục nay lại thấy Khẩn là vốn tự có
hàn, là chứng hàn sán, bụng đau.
Mạch ở thốn khẩu thấy Phù mà Khẩn. Khẩn là hàn, Phù là
hư. Hàn và hư tranh nhau, tà ở bì phu.
Mạch Đại, Hồng, Khẩn, Sác là bệnh tiến triển, ở bên
ngoài là đầu đau, phát sốt, ung thủng.
Mạch ở thốn khẩu Trầm mà Khẩn là lạnh ở dưới tim,
thường hay đau, có tích tụ.
Mạch Sáp mà Khẩn là chứng tý.
Mạch Phù Khẩn là phong hàn, mạch Trầm Khẩn là lãnh
thống.
Mạch Hồng Khẩn là ngực đầy tức, đại tiện khó mà ra
máu, Phù Khẩn là hàn, Trầm Khẩn là tà khí thịnh - Tế Khẩn là hàn.
- Mạch Khẩn mà Phù chủ về ngoại cảm. Khẩn mà Trầm là
tim, 2 bên sườn, bụng dưới bị hàn bế và gây ra nôn mửa, tiêu chảy.