SINH ĐỊA
Tên
thuốc: Radix Rehmanniae.
Tên
khoa học: Rehmannia glutinosa
(Gaertn.) Libosch
Họ
Hoa Mõm Chó (Scrophulariaceae)
Bộ phận dùng: thân rễ (vẫn gọi là củ). Chọn củ to
mập, vỏ vàng mỏng, mềm, cắt ngang có màu đen nhánh, nhiều nhựa không thối nát
là tốt. Loại to mỗi cân được 16 - 80 củ, loại nhỏ 40 - 60 củ.
Thành
phần hoá học:
có manit, rehmanin, chất đường và caroten.
Tính
vị: sinh địa
(địa hoàng) còn tươi mát, đắng.
Sinh
địa đã chế biến: mát ; hơi đắng, ngọt, tính hàn.
Quy
kinh: Vào kinh Tâm,
Can và Thận.
Tác
dụng: bổ chân âm, thanh
hoả, mát huyết nhiệt.
Chủ
trị: trị lao thương, hư
tổn, ứ huyết, đái ra huyết, bổ ngũ tạng, thông huyết mạch, thêm khí lực, sáng
tai mắt.
-
Nhiệt tà xâm nhập phần huyết biểu hiện như khô miệng, lưỡi đỏ sẫm và rêu lưỡi
mỏng: Dùng Sinh địa với Huyền sâm, Tê giác và Mạch đông.
-
Âm và dịch cơ thể bị tiêu hao ở giai đoạn cuối của bệnh do sốt gây ra biểu hiện
như sốt về đêm, giảm về sáng và không ra mồ hôi: Dùng Sinh địa hoàng với Tri
mẫu, Thanh hao và Miệt giáp.
-
Xuất huyết do nhiệt thịnh biểu hiện như nôn ra máu, chảu máu cam, tiểu ra máu,
tiêu ra máu và chảy máu tử xung chức năng: Dùng Sinh địa hoàng với Trắc bách
diệp và Hà diệp.
-
Bệnh do sốt kèm nhiệt độc quá mức trong máu, chảy máu cam và xuất huyết dưới
da: Dùng Sinh địa hoàng với Tê giác, Mẫu đơn bì và Xích thược.
-
Bệnh do sốt kèm tiêu hao dịch của cơ thể biểu hiện như lưỡi đỏ miệng khô, khát
và uống nhiều nước: Dùng Sinh địa hoàng với Ngọc trúc, Mạch đông, Sa sâm
và Thạch hộc. Nếu có táo bón dùng Sinh địa hoàng với Huyền sâm và Mạch
đông.
Liều
dùng: Ngày dùng 12 - 64g.
Kiêng
ky:.không dùng cho người
Tỳ Vị hư hàn và thấp nhiệt.
Cách Bào
chế:
Theo
Trung Y: Lấy 10kg sinh địa tươi, cHọn riêng củ to béo độ 6kg (600 gam mà được 4
– 6 củ là thứ tốt), rửa sạch, phơi nắng cho se vỏ lại; còn 4kg loại bé nhỏ vụn
thì cũng rửa sạch cho vào cối giã nát, đổ vào 300ml rượu, lại giã, vắt lấy nước
tẩm vào 6kg trên, phơi sấy hoặc sấy khô (Bản Thảo Cương Mục).
Khi
dùng Sinh địa thì ủ một ngày, dùng dao bằng đồng thái lát mỏng, phơi khô.
Theo
kinh nghiệm Việt Nam: có 3 giai đoạn;
Sấy
lần 1: rễ củ đào về không bị sứt mẻ, không rửa nước, cHọn riêng thành 4 loại
to, nhỏ, rải riêng từng loại cho vào lò sấy, thứ to để dưới, thứ nhỏ để trên,
ngày đầu sấy nhẹ lửa 35 - 40o cho se vỏ ngoài, ngày thứ hai và những ngày sau
giữ nhiệt độ 50 - 60o, hàng ngày trăn trở luôn cho khô đều, trong 6 – 7 ngày;
thấy củ nào mềm dẻo như cao su thì bóp nắn cho mềm (thịt đã đen lại) để ra
ngoài, củ nào còn rắn cứng thì tiếp tục sấy cho đến khi mềm mới thôi.
Ủ:
các loại củ đã mềm rồi, rải mỏng tất cả ra sàn nhà, nơi khô ráo, thoáng gió
trong 5 - 6 ngày, rồi xếp lại lấy bao bố tời ủ lên. Hai, ba ngày sau, giở ra
xem thấy vỏ ngoài ngả màu xám, có lên meo mốc trắng, bẻ ra, trong có tiết ra
một chất nhựa đen: lấy thử vài củ vê sẽ giữa hai ngón tay, thấy mềm nhũn như
chuối chín là được.
Sấy
lần 2: ủ được rồi đem sấy lại lần nữa ở nhiệt độ 40 -50o khi vỏ ngoài khô độ
80% là được.
Phẩm
chất: Sinh địa khô, vỏ xám đen, thịt đen, giữa củ hơi vàng là tốt.
Bảo
quản: dùng để nấu ngay
thành Thục địa thì không cần bảo quản , nhưng muốn để lâu phải bảo quản cho
tốt.
Lấy
đất phù sa hay đất sét khô tán nhỏ mịn, rây qua, đổ vào cái nong rồi cho các củ
Sinh địa vào chà lăn cho đều, bóp nắn cho tròn củ, đừng để củ dài dễ gãy. Cho
vào thùng đậy kín.
Ghi
chú:
-
Khi đào rễ củ về thì không được rửa nước, không đào lúc trời mưa.
-
Củ nhỏ bé quá, vứt đi lãng phí, dùng để trồng thì không tốt nên đem sấy để
riêng, sau này nấu thành nước sắc đặc tẩm vào Thục địa càng tốt.
Kiêng
kỵ: không dùng trong
trường hợp suy và thấp nặng ở Tỳ, đầy bụng hoặc tiêu chảy.