CỐT TOÁI BỒ
(Rhizoma Gusuibu)
Cốt
toái bổ còn gọi là Hầu khương, Hồ tôn khương, Thân khương, cây Tổ phượng, cây
Tổ rồng, Tổ diều, Tắc kè đá, là thân rễ phơi khô của cây Bổ cốt toái ( Drynaria
Fortunei (kunze) J.Sm) thuộc họ Dương xỉ.
Vị
thuốc được ghi đầu tiên trong sách Dược tính bản thảo, có tên Bổ cốt toái vì
người ta cho rằng vị thuốc này có tác dụng làm liền những xương bị dập nát,
gãy.
Ở
Việt nam có mấy loại Cốt toái bổ đều được dùng làm thuốc như Drynaria Fortunei
J.Sm, Drynaria Bonii Christ.
Tính vị qui kinh:
Vị
đắng, ôn, qui kinh Can thận.
Theo
các sách thuốc cổ:
- Sách
Nhật hoa tử bản thảo: tính bình.
- Sách
Khai bảo bản thảo: vị đắng ôn, không độc.
- Sách
Qủang tây trung dược chí: ngọt, hơi đắng, sáp, ôn.
- Sách
Bản thảo cương mục: qui kinh Túc thiếu âm.
- Sách
Bản thảo cầu chân: nhập Thận kiêm nhập Tâm.
- Sách
Bản thảo tái tân: nhập Can thận.
Thành phần chủ yếu: Naringin.
Tác dụng dược lý:
A.Theo
Y học cổ truyền:
Thuốc
có tác dụng: bổ thận, làm mạnh gân xương, hoạt huyết hóa ứ, cầm máu giảm đau.
Trị
chứng thận hư, đau lưng, đau răng, ù tai, té ngã chấn thương gân xương.
Trích
theo một số Y văn cổ:
- Sách
Dược tính bản thảo: "chủ cốt trung độc khí phong huyết thống,
ngũ lao lục cực, mồm méo xếch tay co cứng, thượng nhiệt hạ lãnh".
- Sách
Khai bảo bản thảo: " chủ ác sang sát trùng".
- Sách
Bản thảo cương mục: " tán bột kẹp với thận heo nướng ăn lúc
đói trị chứng tai ù, tiêu chảy do thận hư, đau răng".
- Sách
Bản thảo thuật: " trị yêu thống hành tý, trúng phong, hạc tất
phong, tiết tả lâm, di tinh, thóat giang".
B.Kết
quả nghiên cứu theo dược lý hiện đại:
- Cốt
toái bổ có tác dụng tăng cường sự hấp thu Calci của xương, nâng cao lượng
Phospho và calci trong máu giúp cho chóng liền xương. Thuốc có tác dụng
giảm đau và an thần.
- Có tác
dụng rõ phòng ngừa lipid huyết cao, làm giảm lipid máu cao và phòng ngừa
được chứng xơ mỡ mạch.
- Thực
nghiệm trên chuột lang, nhận thấy thuốc có tác dụng làm giảm độc của
Kanamycin đối với tai trong, nhưng sau khi ngưng thuốc, tai vẫn bị điếc
vẫn phát triển.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị chứng răng đau, răng long, răng chảy máu do thận
hư:
- Bột Cốt
toái bổ vừa đủ sao đen xát vào răng.
- Gia vị
Địa hoàng hoàn: Thục địa 16g, Sơn dược, Sơn thù, Phục linh, Đơn bì, Trạch
tả mỗi thứ 12g, Tế tân 2g, Cốt toái bổ 16g, sắc uống.
2.Trị chấn thương phần mềm, gãy xương kín:
- Tẩu mã
tán: Cốt toái bổ, lá sen tươi, lá Trắc bá diệp tươi, quả Bồ kết tươi,
lượng bằng nhau, tán nhỏ, mỗi thứ 12g, ngày 2 lần, hãm nước sôi uống hoặc
đã đắp ngoài.
- Tiếp
cốt tán: Cốt toái bổ, Huyết kiệt, Bằng sa, Đương qui, Nhũ hương, Một dược,
Tục đoạn, Đồng tự nhiên, Đại hoàng, Địa miết trùng, lượng bằng nhau, tán
bột trộn Vaselin bôi vùng đau. Bài thuốc có tác dụng làm liền xương nhanh.
3.Phòng nhiễm độc Streptomycin:
- Mỗi
ngày dùng Cốt toái bổ 30g, sắc nước, phân 2 lần uống, tác giả theo dõi 32
ca tai ù do streptomycin, kết quả tốt (Tạp chí Y trung nguyên 1987,2:33).
- Cốt
toái bổ làm mất tác dụng phụ của Streptomycin 200 ca, có kết quả 89,6%
(kết quả tiêm huyệt tai tốt hơn uống) (Theo báo cáo của Thang Mộ Lan đăng
trên tạp chí Kháng sinh tố 1981, 4:52).
- 53 ca
uống Streptomyci được dùng Cốt toái bổ thang (Cốt toái bổ 30g, Cúc hoa
12g, Câu đằng 12g), kết quả dùng trong 35 ngày là 98,1% (Tân trung y
1986,11:30).
4.Trị chai chân: Cốt
toái bổ 9g, giã nát ngâm vào 100ml cồn 95%, 3 ngày đem xát vùng chai có kết quả
(Tạp chí Trung y 1964,8:37).
Liều thường dùng:
- Liều:
10 - 20g. Dùng ngoài theo yêu cầu.