LỘC NHUNG
Tên
thuốc: Cornu Cervi
Pantotrichum.
Tên
khoa học: Coruu cervi Parvum
Bộ
phận dùng: hươu và nai đực mới
có sừng. Vào cuối mùa hạ, sừng nó rụng đi; đầu mùa xuân sang năm, sừng non mọc
lên. Sừng non khi mới mọc chừng 5 - 20cm rất mềm, mặt ngoài phủ đầy lông tơ màu
nâu nhạt, trong có rất nhiều mạch máu và phát triển rất mau lẹ để thành sừng
(gạc) không còn lông da nữa. Nhung tốt nhất là thứ chưa phân yên, khổ mềm, thái
được toàn bộ, không có xương tảng, không nứt.
Nhung
đã mọc được một chi đúng phân yên thì đã kém, nếu chi đã hơi dài thì lại càng
kém giá trị. Ở miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc cho nhung hươu (Lộc nhung) tốt
hơn nhung nai (Mê nhung); ở miền Trung nước ta và Triều Tiên thì lại chuộng
nhung nai hơn vì to hơn. Có người lại cho nhung hươu rừng tốt hơn nhung hươu
nuôi. Mới đây ở Liên Xô người ta chứng minh nhung hươu nhà có giá trị như nhung
hươu rừng.
Thành
phần hoá học: có nội tiết tố (hormon) gọi là nhung tinh, ở Liên Xô, người ta
lấy chất này làm thuốc tiêm, thuốc uống pantocrin; ngoài ra còn có calci
phosphat, calci cacbonat, protein, chất keo v.v...
Tính
vị: vị ngọt, hơi
mặn, tính ôn.
Quy
kinh: Vào kinh
Thận, Tâm, Can và Tâm bào.
tác
dụng - Chủ trị: bổ nguyên dương, thuốc tư bổ cường
tráng trị hư hao, đau lưng, mỏi gối, mỏi chân tay.
Liều
dùng: Ngày dùng 3 - 6g
(Nhung phiến hoặc Bột nhung)
Cách
bào chế:
Chế
biến nhung tươi: Lúc cắt nhung phải đảm bảo vô trùng, dùng cưa hay dao thật bén
mà cắt, đầu treo ngược để khỏi chảy máu. Lấy vải bông đã tẩm cồn 90o bọc lại
chỗ cắt. Lúc cắt cần làm cho hươu nai bình tĩnh không hoảng sợ để máu trong
nhung không chảy mạnh làm giảm mất chất. Nhung tươi có thể làm sạch lông, thái
miếng mỏng ngâm rượu (1/4) mà dùng. Cắt xong, treo ngược lên rồi làm khô. Việc
làm khô rất quan trọng, liên quan đến giá trị và phẩm chất của nhung. Có mấy
cách sau đây:
+
Lấy giấy bản tẩm rượu gừng (1/10) quấn lại, để nhung đứng ngược trong một cái
thùng có đáy dễ tháo ra. Lấy cát nóng 30 - 40o xối vào cho ngập nhung (trừ chỗ
cắt). Khi cát nguội, tháo cát ra, bọc giấy bản tẩm rượu gừng lại, xối cát khác
vào nóng hơn (60 - 70o). Làm như vậy cho đến khô. Dùng cát nóng quá thì da
ngoài chóng khô nhăn và nứt nhưng trong chưa khô, sau này hỏng. Mỗi lần thay
cát nên thay giấy bản tẩm rượu (cách này thường dùng).
+
Lấy giấy bản quấn vào nhung, tẩm rượu, treo cao lên bếp cho khô, rồi phơi râm.
+
Lấy giấy bản nhúng vào nước gừng có pha rượu quấn vào nhung để 2 giờ, lấy bẹ
chuối tươi bó lại. Nướng trở cho đều đến khi héo bẹ chuối thì thôi.
+
Để nhung lên gác bếp chỗ nóng vừa cho đến khô. Làm cách này nhung đen và hôi.
+
Có người dự kiến sấy nhung trong tủ sấy giữ nhiệt độ 70 - 80o cho đến khô
(dùng nhiệt độ từ thấp lên cao). Khi nhung khô rồi, bọc vào giấy bản đựng trong
thùng kín, để chỗ khô ráo. Nhung chế biến tốt là không đen, không teo, không
nứt, lông mượt, cắt ra thấy hồng đỏ, khi sờ lên có cảm giác như sờ lên miếng
sáp. Nhung chế biến không tốt thì teo, nứt bị ươn ở trong.
Ghi
chú:
lúc mới cắt máu chảy ra
có thể dùng ngay pha với rượu uống rất bổ, thường dùng cho người có tuổi.
Bào
chế nhung khô: Lấy bàn chải chải ngược lông cho hết lông có mấy cách:
+
Lấy thanh sắt nung đỏ lăn đi lăn lại trên nhung cho cháy hết lông.
+
Lấy rượu 90o tẩm qua đốt cho cháy hết lông. Làm hết lông rồi, nhưng nếu thấy
cứng thì tẩm qua rượu (hay không tẩm) đồ cho mềm (khôngnên đồ kỹ quá), thái
miếng tròn càng mỏng càng tốt (dùng đến đâu thái đến đó), tẩm ít rượu sấy nhẹ
lửa cho khô (không nên sao). Sau đó tán bột làm hoàn tán hoặc để ăn với cháo
hoặc ngâm rượu (1/2) mà dùng.
Bảo
quản: để nơi khô ráo,
trong hộp, lọ kín; Có thể lót bột Long não, Hoa tiêu hay Tế tân để phòng sâu
bọ.
Kiêng
ky: người bệnh hư hàn
thì không nên dùng.