MẠCH LÝ Y HỌC CỔ TRUYỀN
A. ĐẠI CƯƠNG :
Trong lâm sàng thực nghiệm, đối
với các thầy thuốc YHCT, một trong những yếu tố chẩn đoán được coi là khó nhất,
đó là việc xem mạch. Mạch tượng (hình thể của mạch) vừa là thực tại (sờ, bắt
được) nhưng cũng rất trừu tượng. Xét về từng ý nghĩa của mạch, mỗi loại mạch có
thể chủ một loại bệnh khác nhau. Ngoài ra mạch ở các vị trí khác nhau cũng biểu
hiện bệnh lý khác nhau.
Chữ MẠCH theo nguyên nghĩa có thể hiểu là:
1- Chữ Mạch một bên là chữ Huyết (血)
một bên là chữ Phái ( 派)
là ngành, là chi phái nhánh), ý nói rằng mạch là một nhánh của huyết, ở trong
đó, huyết lưu thông.
2- Một bên là chữ Huyết (血) một
bên là chữ Vĩnh ( 永 ) là
lâu dài, ý nói có mạch thì có thể còn sống lâu dài (mất mạch, mạch không đập
nữa là chết).
3- Một bên là chữ Nhục (肉 ) một bên là chữ (永 ) là lâu dài, ý nói có mạch thì sống lâu
(không còn mạch thì chết).
Như vậy, theo YHCT, mạch là biểu hiện của Khí, Huyết, lưu
hành ngày đêm khắp cả cơ thể con người.
Theo YHCT, chẩn mạch là thầy thuốc dùng ngón tay của
mình, bắt mạch của người bệnh để phân biệt mạch tượng rồi kết hợp với các phép
Vọng (nhìn), Văn (nghe), Vấn (hỏi), để chẩn đoán âm dương biểu lý, hàn nhiệt,
hư thực của bệnh chứng.
Chẩn đoán mạch tượng có thể hiểu rõ
được sự biến hóa của bệnh, theo đó mà phân biệt chứng hậu, mặt khác lại có thể
dò được sự thường hoặc biến của khí huyết, theo đó mà suy đoán được sự thịnh
suy của chính khí, làm cho thầy thuốc có thể nắm vững được diễn biến trên lâm
sàng”.
B- CƠ
CHẾ CỦA MẠCH
Mạch với Tâm có quan hệ với nhau theo từng nhịp thở. Tâm
lại có quan hệ mật thiết với toàn bộ cơ thể. Vì vậy, cơ thể bị bệnh chắc chắn
sẽ ảnh hưởng đến mạch.Mạch là phủ của huyết, mạch Trường thì khí được trường,
mạch Đoản thì khí bị bệnh, mạch Sác thì tâm phiền, mạch Đại thì bệnh đang tiến
triển. Mạch là phủ của huyết, Vinh khí dựa vào mà đi trong mạch, Vệ khí dựa vào
mà đi ở ngoài. Mạch theo khí đi, huyết theo mạch chạy. Vinh Vệ điều hòa, khí và
huyết thông ứng, đó là người bình thường.