Biển
Thước
Tên thật là Tần Hoãn tự Việt Nhân, vốn người châu Mạc, Bột Hải (nay là huyện
Nhiệm Khâu, tỉnh Hà Bắc - thời Chiến quốc thuộc nước Triệu). Ông sinh khoảng
năm 401 trước Công Nguyên, mất năm 310 trước Công nguyên, thọ hơn 90 tuổi.
Tác phẩm : "Biển Thước nội kinh", "Biển Thước ngoại kinh",
"Nạn kinh"
Cơ duyên với nghề thầy thuốc
Thời còn trai trẻ, Tần Việt Nhân vốn là chủ một quán trọ, và sống bằng nghề
này. Lúc đó có một lương y biệt danh là Trường Tang Quân thường trọ tại quán của
Việt Nhân. Việt Nhân rất kính trọng vị lương y này, nên đã phục vụ rất chu đáo
và không lấy tiền. Để đáp lại, Trường Tang Quân nhận Việt Nhân làm học trò và
truyền hết sở học cho ông.Khi tay nghề đã thành thạo, Việt Nhân chuyển hẳn sang
nghề thầy thuốc này, dần dần trở nên nổi tiếng, được dân chúng nước Triệu tặng
cho biệt hiệu "Biển Thước tiên sinh" (tương truyền Biển Thước là một
"lang băm" sống vào thời thượng cổ ở Trung Quốc).
Hành nghề cứu người
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, thuật đồng bóng đang lan tràn, nghề y bị lạnh nhạt;
nhiều người mắc bệnh không chịu uống thuốc mà cứ rước đồng bóng về để "đuổi
quỉ, trừ tà". Thậm chí nhiều nước chư hầu còn đặt ra các chức quan "đại
chức", "tư vu" để chuyên lo việc này. Biển Thước rất ghét thói
mê tín ấy, thường xuyên đấu tranh chống lại nó một cách kiên trì, và thông qua hoạt
động chữa bệnh có hiệu quả của mình để vạch trần trò hề mê tín của đồng bóng.
Căn cứ vào kinh nghiệm dân gian và kinh nghiệm nhiều năm làm nghề của mình, Biển
Thước đúc kết thành "tứ chẩn" trong phép khám và điều trị là nhìn,
nghe, hỏi và bắt mạch. Ngoài việc vận dụng thành thạo "tứ chẩn" để
đoán bệnh, Biển Thước sử dụng nhiều biện pháp trị liệu như châm kim đá, châm cứu,
xoa nóng, xoa bóp, mổ xẻ, cho uống thuốc v.v... Theo "Hán thư ngoại truyện",
có lần Biển Thước dẫn năm người học trò đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm
Tây) để làm thuốc, nghe nói thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm
thấy đáng ngờ, bèn xin được vào xem. Quan sát một hồi, thấy cánh mũi "người
chết" còn động đậy, hai chân còn ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận:
thế tử mắc chứng "thi quyết" (chết giả), có thể cứu sống được. Ông
bèn châm kim các huyệt chủ yếu, tiếp theo sai học trò Tử Minh làm ngải cứu, Cốc
Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên "người chết
"dần dần tỉnh lại. Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, bệnh nhân
ngồi dậy được ngay. Vua nước Quắc hết sức vui mừng, không tiếc lời khen ngợi.
Người xem Biển Thước như thần tiên, cho rằng ông có thuật "cải tử hoàn
sinh ". Biển Thước khiêm tốn giải thích: "Không phải tôi cứu sống người
chết, mà người bệnh vốn chưa chết, tôi chỉ cứu người bệnh khỏi cơn hấp hối mà
thôi".
Về tài dùng mắt đoán được bệnh, có một giai thoại về Biển Thước sau đây đã được
sử gia Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ "Sử Ký "và người đời sau nhắc lại
một lần nữa trong bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc (ở hồi thứ 32). Chuyện như sau:
Một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn Công, thấy khí sắc vua Tề không tốt,
bèn tâu: "Quân hầu, trong da và chân lông ngài đã có gốc bệnh, nếu không kịp
thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm ". Tề Hoàn Công thờ ơ đáp: "Ta cảm
thấy trong người rất khỏe, chẳng có bệnh tật gì cả ". Biển Thước lui ra,
sau đó năm ngày lại vào yết kiến, nhìn sắc diện rồi khẳng định một lần nữa với
vua Tề: "Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi".
Hoàn Công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Sau khi Biển Thước đi khỏi, ông mới bảo
với mọi người: "Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa người ta. Ta chẳng có bệnh
gì mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn! ". Năm ngày sau nữa, Biển
Thước lại vào yết kiến, chỉ mới nhìn mặt vua Tề, đã quay bước, bỏ đi thẳng.
Hoàn Công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói:"Bệnh ở da, thịt thì còn
xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn tiêm thuốc được, nay bệnh đã vào đến
xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi ". Mấy
ngày sau quả nhiên Hoàn Công phát bệnh. Ông vội cho người đi tìm Biển Thước,
nhưng vị "thần y"đã đi sang nước Tần rồi. Bệnh Hoàn Công ngày càng trở
nặng, chẳng bao lâu vị bá chủ chư hầu này tạ thế.
Về phương pháp bắt mạch của Biển Thước, cũng lưu truyền trong dân gian một giai
thoại như sau: có lần Biển Thước đến nước Tấn, gặp lúc Triệu Giản Tử, người
đang nắm quyền chính trị trong nước lâm bệnh, hôn mê đã năm ngày. Biển Thước bắt
mạch, thấy tim mạch bệnh nhân đập yếu ớt, lại biết được tình hình chính trị nước
Tấn lúc ấy vô cùng rối ren, đoán định là họ Triệu lao tâm quá mức, mắc chứng bệnh
mạch máu (máu tuần hoàn không bình thường) dẫn đến hôn mê. Ông cho uống thuốc,
hai ngày sau Triệu Giản Tử tỉnh lại và bệnh dần thuyên giảm.
Lại có một giai thoại khác nữa về vị"thần y": Một hôm có một phụ nữ
khá đẹp đến gặp Biển Thước, xin một toa thuốc độc, có thể giết người mà không để
lại dấu vết. Đối tượng mà người phụ nữ định đầu độc chính là chồng của chị ta,
vì chị này vốn đã có tình ý với một người đàn ông khác. Biển Thước sợ nếu mình
từ chối, sẽ có người khác giúp chị đàn bà hoàn thành tâm nguyện, nên giả vờ nhận
lời. Ông dặn: về mua khoai mài (hoài sơn) gọt vỏ nấu với lươn cho chồng ăn, mỗi
ngày một lần, ít lâu sẽ chết. Người đàn bà hớn hở về làm đúng như lời hướng dẫn.
Khoảng tháng sau, chị này mang lễ vật đến tạ ơn Biển Thước, báo tin chồng đã chết.
Ông rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu sao khoai mài nấu cháo lươn là một món rất bổ
dưỡng mà ăn vào lại chết. Biển Thước cảm thấy lương tâm cắn rứt, lại hoài nghi
về kiến thức y học của chính mình, nên thề giải nghệ, không chữa cho bất kỳ ai.
Ông còn lấy chìa khóa tủ sách thuốc nhà mình vứt xuống sông cạnh nhà.
Sau đó ít lâu, một hôm vừa thức dậy, Biển Thước thấy một chàng trai trẻ làm nghề
đánh cá đến van xin ông làm phước cứu vợ anh ta đang bị sanh khó. Biển Thước nhớ
lại lời thề dạo trước nên không thèm trả lời chàng trai, chỉ lớn tiếng bảo người
nhà: "lấy nước rửa mặt" (cho ông)! Chàng ngư phủ lại ngỡ đó là lời vị
danh y mách bảo cho mình, bèn ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm đúng như thế. Quả
nhiên vừa rửa mặt xong thì vợ anh ta đẻ được ngay.
Vài hôm sau, chàng trai đánh bắt được một con cá lớn, nhớ ơn thầy thuốc cứu vợ
con mình, bèn kính cẩn đem con cá đến biếu. Một lần nữa, Biển Thước rất ngạc nhiên,
mới hỏi: "Tôi có ơn huệ gì với anh đâu, mà anh đem cá tạ ơn?". Chàng
trai đáp: "Nhờ ơn thầy dạy, tôi lấy nước rửa mặt cho vợ tôi thì vợ tôi
sinh được ngay một thằng con trai rất cứng cáp, dễ thương, nên có chút quà này,
mong thầy nhận cho". Biển Thước không sao lý giải được hai trường hợp hy hữu
trên, cho là tại thời vận hên xui, nên cảm hứng thốt lên hai câu thơ:
Vận khứ, hoài sơn năng trí tử
Thời lai, thanh thủy khả thôi sinh
(nghĩa là: Hết thời, khoai mài có thể làm chết người; còn thời, nước lã có thể
cứu sống người).
Sau khi chàng đánh cá về, người nhà đem cá ra mổ làm món nhắm cho nhà danh y uống
rượu. Lại một sự không ngờ thứ ba xảy đến: khi mổ bụng cá, thấy chùm chìa khóa,
lại chính là chìa khóa tủ sách thuốc mà Biển Thước đã ném xuống sông lúc trước.
Ông tự nghiệm rằng: "Thiên mệnh" đã đặt cho mình nghề làm thuốc để cứu
người, không thể chối bỏ (Từ đó ông ra sức nghiên cứu sâu thêm về y thuật, cứu
được rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên ông vẫn chưa hiểu do đâu có tác dụng
ngược lại của củ mài và nước lạnh.
Một hôm có người đem lươn lại bán. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Biển Thước
bảo người bán lươn đổ cả giỏ lươn xuống đất, thấy trong đám lươn chỉ có một con
ngóc đầu lên cao, còn lại đầu rạp sát đất. Biển Thước mua con lươn ngóc đầu ấy
đem làm thịt nấu cho chó ăn thì chó chết. Bấy giờ Biển Thước mới hiểu cái chết
oan uổng của chàng trai có vợ lăng loàn là do ăn phải thứ lươn ngóc đầu lên chứ
không phải tại khoai mài. Còn nước lã giúp vợ chàng đánh cá đẻ mau, vì chị ấy
quá mệt, không còn sức rặn. Khi đem nước lạnh rửa mặt, sản phụ cảm thấy sảng
khoái, sức mạnh tăng thêm nên sinh được dễ dàng chứ không có gì bí hiểm cả.
Bắt mạch, chẩn đoán chính xác bệnh tình là một cống hiến lớn của Biển Thước đối
với y học Trung Quốc nói riêng, ngành Đông y nói chung. Trong "Sử
ký", Tư Mã Thiêntán tụng:"Đến nay thiên hạ nói đến mạch là do Biển
Thước vậy ". Thật ra nói thế có phần nào hơi phóng đại, nhưng đúng là Biển
Thước rất tinh thông phép bắt mạch, chẩn đoán bệnh chính xác và trị bệnh giỏi
như thần. Chính vì vậy nên dân gian có rất nhiều giai thoại truyền tụng về Biển
Thước mà ở trên là một vài ví dụ. Nhưng đã là giai thoại thì tính chính xác rất
hạn chế, chẳng hạn giai thoại về việc Biển Thước định bệnh cho Tề Hoàn Công. Thật
ra, đó chỉ là một sự gán ghép, vì Tề Hoàn Công mất năm 643 trước Công Nguyên,
hơn 200 năm sau Biển Thước mới ra đời. Cũng như giai thoại "khoai mài, nước
lã"; có người cho là của một danh y Việt Nam chứ không phải của Biển Thước
v.v... (tùy độc giả suy luận). Duy có sự tích sau đây thì đúng là sự thật. Đó
là lần Biển Thước diện kiến Tần Vũ Vương. Sau khi nghe vua Tần kể bệnh Biển Thước
xin được điều trị. Một số người can ngăn vua Tần: "Đại vương đau ở phía
trước tai, phía dưới mắt. Trị chưa chắc đã hết, không khéo tai lại hóa điếc, mắt
hóa mờ mất". Tần Vũ Vương vốn nhát, nghe vậy bèn thôi, không cho Biển Thước
trị bệnh. Biển Thước giận dữ, liệng cục đá đồ nghề xuống đất, mắng vua Tần:"Đại
vương vấn kế bậc trí giả mà lại nghe lời kẻ ngu để hỏng việc. Điều đó cho tôi
thấy chính trị của nước Tần như thế nào: nước Tần có thể mất vì đại vương đấy".
(Đoạn trên ghi trong "Chiến quốc sách, chương "Tần sách").
Đến cuối đời, danh tiếng Biển Thước ngày càng lớn, càng khiến cho nhiều người
ganh ghét, trong đó có một viên quan thái y nước Tần tên Ủy Hề. Hắn vốn là kẻ bất
tài, thấy y thuật Biển Thước hơn người, sợ một ngày nào đó có thể thay vị trí của
hắn. Vì vậy năm 310 trước Công Nguyên, khi Biển Thước đến hành nghề ở nước Tần,
hắn sai người lén đâm chết ông. Nhân dân ở nhiều địa phương rất thương tiếc, đã
cho dựng mộ, bia và thờ Biển Thước ở Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam v.v...
Theo sách sử ghi chép, Biển Thước khi còn sống đã có sách "Biển Thước nội
kinh", "Biển Thước ngoại kinh", đáng tiếc đều đã mất. Hiện còn
quyển "Nạn kinh", có giá trị tham khảo khá cao về kinh mạch, tuy có
người cho rằng sách này do người đời sau làm, lấy tên Biển Thước. Sử gia Tư Mã
Thiên đánh giá Biển Thước rất cao: "Biển Thước hành nghề y làm kẻ đứng đắn
tôn trọng, giữ mực thước tinh tế trong sáng, đời sau học theo không phải dễ".
Thiết tưởng sự đánh giá của Tư Mã Thiên về "thần y" Biển Thước như
trên không có gì là quá đáng.