THƯỜNG SƠN
Tên
thuốc: Radix Dichroce.
Tên
khoa học: Dichroa febrifuga
Lour
Họ
Thường Sơn (Saxifragaceae)
Bộ phận dùng: lá, rễ. Lá thu hái vào mùa xuân hạ.
Có hai thứ: lá tía tốt hơn lá xanh.
Rễ
đào về mùa thu đông, nhỏ dài cong queo, sắc vàng, trong đặc, chắc là tốt.
Thường
dùng lá hơn là dùng rễ, lá to rộng, không vàng úa, mục nát là tốt.
Thành
phần hoá học:
toàn cây có Dicroin .
Tính
vị: rễ vị đắng,
tính hàn; lá vị cay, tính bình.
Quy
kinh: Vào kinh Phế, Tâm
và Can.
Tác
dụng: thanh nhiệt, hành
thuỷ, trừ đờm, tiệt ngược.
Chủ
trị: dùng sống gây nôn
mửa.
Tẩm
rượu sao: trị sốt rét, trị đờm.
Sốt
rét: Dùng Tthường sơn với Thảo quả, Tri mẫu và Tân lang.
Liều
dùng: Ngày dùng 6 - 12g.
Cách Bào
chế:
Theo
Trung Y: Rễ: rửa sạch, giã nát hoặc thái lát, phơi khô dùng hoặc tẩm rượu 2 -3
giờ sao vàng, có thể chưng với rượu.
Theo
kinh nghiệm Việt Nam: Tước hết sống lá bỏ đi, đồ chín phơi khô. khi dùng tẩm
rượu một đêm (lkg lá tẩm 300ml rượu). Tẩm rượu sao qua thì hết bị nôn mửa.
Có
người dùng cả rễ và lá nấu thành cao đặc (lml = 10g dược liệu để trị sốt rét).
Bảo
quản: dễ hút ẩm, mốc và
vụn nát nên phải thường xuyên phơi sấy.
Kiêng
ky: người nguyên khí hư
yếu có bệnh lâu ngày hoặc già yếu nên Thận trọng hơn. Phụ nữ có thai
không nên dùng.
Chú
ý: thường sơn có thể
gây nôn, bồn nôn.