NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ THUỐC ĐÔNG Y
I.Cách tổ chức một bài thuốc:
Bài
thuốc Đông ( Nam hoặc Bắc) đều có thể gồm 1 vị hoặc nhiều vị. Ví dụ: Bài Độc ẩm
thang chỉ có vị Nhân sâm; bài thuốc chữa viêm gan chỉ có vị Nhân trần; bài
thuốc nhiều vị là có hai vị trở lên như bài Thông xị thang gồm có Thông bạch và
Đạm đậu xị; bài Nhân trần Chi tử thang gồm có Nhân trần và Chi tử . Những bài
thuốc Đông y đều do người thầy thuốc hoặc nhân dân dựa theo kinh nghiệm chữa
bệnh mà dựng nên.
Những
phần chủ yếu của một bài thuốc
Một
bài thuốc Đông y gồm có 3 phần chính:
- Thuốc
chính ( chủ dược): là vị thuốc nhằm giải quyết bệnh chính như trong 3 bài
Thừa khí thang thì Đại hoàng là chủ dược để công hạ thực nhiệt ở trường
vị.
- Thuốc
hỗ trợ: để tăng thêm tác dụng của vị thuốc chính như trong bài Ma hoàng
thang, vị Quế chi gíup Ma hoàng tăng thêm tác dụng phát hãn.
- Thuốc
tùy chứng gia thêm ( tá dược): để giải quyết những chứng phụ của bệnh như
lúc chữa bệnh ngoại cảm, dùng bài Thông xị thang mà bệnh nhân ho nhiều
dùng thêm Cát cánh, Hạnh nhân. Ăn kém dùng thêm Mạch nha, Thần khúc.
Ngoài
3 phần chính trên còn có một số vị thuốc Đông y gọi là sứ dược để giúp dẫn
thuốc vào nơi bị bệnh như Cát cánh dẫn thuốc lên phần bị bệnh ở trên, Ngưu tất
dẫn thuốc xuống phần bị bệnh ở dưới hoặc loại thuốc để điều hòa các vị thuốc khác
như Cam thảo, Đại táo, Gừng tươi.
Cách
phối hợp các vị thuốc trong một bài thuốc:
Việc
phối hợp các vị thuốc trong một bài thuốc như thế nào để phát huy tốt nhất tác
dụng của thuốc theo ý muốn của thầy thuốc đó là kỹ thuật dùng thuốc của Đông y.
- Do việc
phối hợp vị thuốc khác nhau mà tác dụng bài thuốc thay đổi. Ví dụ: Quế chi
dùng với Ma hoàng thì tăng tác dụng phát hãn, còn Quế chi dùng với Bạch
thược thì lại có tác dụng liễm hãn ( cầm mồ hôi).
- Cũng có
lúc việc phối hợp thuốc làm tăng hoặc làm giảm tác dụng của vị thuốc
chính, ví dụ như Đại hoàng dùng với Mang tiêu thì tác dụng sẽ mạnh, nếu
dùng với Cam thảo thì tác dụng sẽ yếu hơn.
- Một số
thuốc này có thể làm giảm độc tính của thuốc kia như Sinh khương làm giảm
độc tính của Bán hạ.
- Trong
việc phối hợp thuốc cũng thường chú ý đến việc dùng thuốc bổ phải có thuốc
tả như trong bài Lục vị có thuốc bổ như Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù có
thêm vị thuốc thanh nhiệt lợi thấp như Phục linh, Đơn bì, Trạch tả. Trong
bài thuốc Chỉ truật hoàn có vị Bạch truật bổ khí kiện tỳ phải có vị Chỉ
thực để hành khí tiêu trệ. Trong bài Tứ vật có Đương qui, Thục địa bổ
huyết thì có vị Xuyên khung để hoạt huyết hoặc dùng thuốc lợi thấp kèm
theo hành khí, thuốc trừ phong kèm theo thuốc bổ huyết.
Đó
là những kinh nghiệm phối hợp thuốc trong Đông y cần được chú ý. Việc dùng
thuốc nhiều hay ít là tùy theo biện chứng tình hình bệnh mà định, nguyên tắc là
phải nắm chủ chứng để chọn những chủ dược trị đúng bệnh, không nên dùng thuốc
bao vây quá nhiều gây lãng phí mà tác dụng kém đi, một bài thuốc thông thường
không nên dùng quá 12 vị. Liều lượng của mỗi vị thuốc tong bài này tùy thuộc
vào các yếu tố sau:
- Thuốc
đó là chủ dược hay thuốc hỗ trợ, thuốc chính dùng lượng nhiều hơn.
- Người
lớn dùng lượng nhiều hơn trẻ em và người già.
- Thuốc
bổ thường dùng lượng nhiều hơn các loại thuốc khác.
- Tùy
trọng lượng của thuốc nặng hay nhẹ, ví dụ Thạch cao, Mẫu lệ dùng nhiều như
Đăng tâm, Thuyền thoái nhẹ nên chỉ dùng lượng ít.
Ngoài
ra còn tùy tình hình bệnh và mục đích dùng thuốc mà quyết định lượng thuốc.
II.Cách gia giảm trong một bài thuốc:
Một
bài thuốc dù là cổ phương hay kim phương đều có phạm vi chỉ định điều trị trên
lâm sàng. Cho nên lúc sử dụng bài thuốc để đạt hiệu quả cao phù hợp với tình
hình bệnh lý cần có sự gia giảm tùy theo bệnh tật, theo lứa tuổi, theo thể
chất, của người bệnh và tùy theo cả loại dược liệu sẳn có, khí hậu của địa
phương.
- Sự tham
gia của các vị thuốc: Bài thuốc thường do sự thay đổi vị mà tác dụng khác
nhau, ví dụ bài Quế chi thang có tác dụng giải biểu điều hòa vinh vệ dùng
điều trị các bệnh ngoại cảm biẻu chứng có mồ hôi sợ gió và sốt nhẹ. Nếu
bệnh cũng có chứng trên kèm theo suyễn gia Hạnh nhân, Hậu phác; bài thuốc
sẽ có tác dụng bình suyễn. Nếu sốt cao bỏ Ma hoàng gia Hoàng cầm bài thuốc
sẽ có tác dụng hạ sốt. Hoặc bài Ma hoàng thang có tác dụng tân ôn phát hãn
nếu bỏ Quế chi bài thuốc sẽ thành bài Tam ảo thang có tác dụng chính là
bình suyễn chỉ khái.
- Sự gia
giảm liều lượng thuốc: trong một bài thuốc nếu lượng dùng của từng vị
thuốc thay đổi thì tác dụng điều trị sẽ thay đổi. Ví dụ bài Chỉ truật hoàn
gồm có Chỉ thực và Bạch truật tác dụng chính là kiện tỳ, nếu lượng Chỉ
thực tăng gấp đôi Bạch truật thì tác dụng bài thuốc là tiêu tích đạo trệ.
- Vấn đề
thay thế thuốc: lúc sử dụng một bài thuốc, do tình hình cung cấp thuốc của
địa phương mà có thể có một hoặc nhiều vị thuốc thiếu, người thầy thuốc
phải tìm những vị thuốc khác có tính vị và tác dụng giống nhau để thay thế
bảo đảm cho phép chữa đưọc thực hiện. Ví dụ Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng
bá tuy có khác nhau nhưng đều có tính vị đắng, hàn, tác dụng thanh nhiệt
táo thấp có thể thay thế cho nhau được chỉ cần chú ý liều lượng lúc dùng.
Ví dụ: muốn dùng Chỉ thực thay Chỉ xác thì lượng Chỉ thực phải ít hơn.
III.Phân loại bài thuốc
Việc
phân loại bài thuốc dựa theo 8 phương pháp điều trị của Đông y như: Thuốc giải
biểu, thuốc gây nôn, thuốc tả hạ, thuốc hòa giải, thuốc thanh nhiệt, thuốc khu
hàn, thuốc tiêu đạo, thuốc bổ dưỡng. Ngoài ra còn có các loại thuốc lý khí, lý
huyết, thuốc khu phong, thuốc trừ thấp, thuốc khai khiếu, thuốc cố sáp, thuốc
trục trùng.
Việc
phân loại bài thuốc cũng chỉ để tham khảo trong khi sử dụng trên lâm sàng, tác
dụng từng loại sẽ được nói rõ hơn trong phần phương tể học.
IV.Các dạng thuốc và cách sử dụng:
Đông
dược có 5 dạng thuốc cơ bản: Thang, hoàn, tán, cao, đơn. Trong đó 4 loại sau là
thuốc được pha chế saün; thực ra thuốc hoàn, tán có khi cũng làm thuốc thang
sắc uống.
- Thuốc thang: cho nước vào ấm đổ nước
vừa đủ, nấu sôi thành thuốc nước uống. Đặc điểm thuốc thang là: dễ gia
giảm hợp với tình hình bệnh cho nên là loại thuốc thường được dùng nhiều
nhất trên lâm sàng. Nhược điểm chính của thuốc thang là cồng kềnh, mất
công sắc thuốc, mất thì giờ, tốn chất đốt, có lúc lượng thuốc nhiều đối
với trẻ em sẽ khó uống.
- Thuốc hoàn: đem thuốc tán bột mịn
dùng với nước mật hoặc hồ viên thành hoàn. Ưu điểm của thuốc là cho đơn có
được uống ngay nhưng thuốc để lâu khó bảo quản, liều lượng có khi phải
dùng nhiều, trẻ nhỏ khó uống.
- Thuốc tán: thuốc được tán thành bột mịn dùng uống
trong hoặc bôi ngoài, có lúc sắc cùng thuốc sắc. Nhược điểm của thuốc là
khó bảo quản, khó uống đối với trẻ em.
- Thuốc cao: thuốc được sắc lấy nước cô đặc thành cao,
thuốc có thể chế thành dạng sirô hoặc dạng rượu để dễ bảo quản. Có loại
thuốc cao dán hoặc cao mỡ, dầu dùng bôi, đắp ngoài đối với bệnh ngoại khoa
ngoài da.
- Thuốc đơn: thuốc hoàn hoặc tán, đưọc tinh chế như các
loại Chí bảo đơn, Hồi xuân đơn, Tử tuyết đơn. Ngoài ra còn có các các dạng
thuốc ngâm rượu, thuốc đinh như Khô trĩ đinh, thuốc đóng ống tiêm hiện
đang sử dụng nhiều ở Trung quốc.
V.Phương pháp sắc thuốc và cách uống thuốc
- Dụng cụ
sắc thuốc tốt nhất là dùng ấm đất, cũng có thể dùng ấm nhôm.
- Thuốc
bỏ vào ấm đổ nước ngập khoảng 2 cm, ngâm thuốc khoảng 15 - 20 phút trước
lúc sắc cho thuốc ngấm đều nước, với thang thuốc ngoại cảm thường sắc 2
lần. Mỗi lần sắc còn 1/3 lượng nước đổ vào, thuốc bổ nên sắc 3 lần lúc
nước sôi cho nhỏ lửa, sắc lâu hơn và thuốc cô đặc hơn.
- Những
điều chú ý lúc sắc thuốc:
- Những
thuốc thơm có tinh dầu như Bạc hà, Hoắc hương, Kinh giới. nên cho vào sau
( 10 phút trước khi đem thuốc xuống).
- Những
loại thuốc cứng, nặng như vỏ sò, mai rùa cần đập vụn và cho vào sắc trước.
- Những
thứ hạt nhỏ như hạt Củ cải, hạt Tía tô.nên bỏ vào vải rồi cho vào sắc.
- Những
thuốc có độc tính như: Phụ tử, Ô đầu, Thảo ô. nên sắc trước độ nửa giờ rồi
cho các thuốc khác vào sau.
- Những
thuốc quí như: Nhân sâm hoặc thuốc nam lượng nhiều quá cũng nên sắc riêng
rồi trộn chung với thuốc sắc để uống.
- Cách uống thuốc: Tùy theo loại thuốc mà
cách uống thuốc khác nhau, thường mỗi thang thuốc sắc 2 lần.
- Nếu là
thang thuốc bổ nên sắc 3 lần rồi trộn lẫn uống trong một ngày.
- Thuốc
thanh nhiệt và thuốc dưỡng âm nên uống lúc nguội.
- Thuốc
tán hàn và thuốc bổ dương nên uống nóng.
- Thuốc
chữa ngoại cảm, trừ phong nên uống lúc đang bệnh.
- Thuốc
bổ và thuốc chữa bệnh mạn tính nên uống vào sau lúc ăn 1 - 2 giờ, thường
uống vào 8 giờ sáng, 2 giờ chiều, tối trước lúc đi ngủ. Đối với trẻ em lượng
thuốc có thể chia nhiều lần để uống trong ngày.
- Đơn vị cân thuốc: Theo cân lượng thường dùng
cân thuốc Đông y ( 1 cân = 16 lạng) tính thành gam như sau:
- 1 cân =
500 gam.
- 1 lạng
= 31,25 gam.
- 1 đồng
cân = 3,1 gam.
- 1 phân
= 0,31 gam.
- 1 gam =
3 phân 2 ly.
- 1 ly =
0,03 gam.