*** Y HỌC PHƯƠNG ĐÔNG *** NGUYỄN HƯNG *** HOTLINE : 0945235868 ***

Mạch Phù ( Nổi )


 MẠCH PHÙ  

-Mạch Phù cũng là mạch Mao. Mạch mùa Thu tức là mạch của Phế, thuộc phương tây, muôn vật nhờ đó tới kỳ thu thành, vì vậy khi đến thì nhẹ, hư mà Phù, khi đến thì gấp, lúc đi thì tan tác,.Phù là nổi,  Mạch lúc nào cũng nổi sát ở da vì vậy gọi là mạch Phù.
MẠCH TƯỢNG
Mạch Phù là mạch dương, là mạch đi ở trên thịt, nhấc tay lên thì có dư, ấn tay xuống thì không đủ, đè xuống thì hơi giảm nhưng không rỗng, nhấc lên thì nổi phù lên mà đi lưu lợi.Mạch Phù đi nổi ở ngoài mặt da, ấn nhẹ thấy ứng ngay ở ngón tay
 HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH PHÙ
- Sách ‘Mạch Chẩn’ vẽ như sau:


NGUYÊN NHÂN
Phù là ứng với kinh lạc, cơ biểu, do tà khí xâm nhập vào 3 kinh dương, bức bách mạch khí ra ngoài, vì vậy tượng mạch nổi đầy lên ( phù ) dưới ngón tay.
Mạch Phù phát sinh có thể do:
·   Lượng máu ở tim tống ra được tăng lên.
·   Sức co bóp của thành mạch kém.
Tà khí xâm nhập vào cơ biểu, tấu lý, vệ dương chống nhau với  ngoại tà thì mạch khí biểu hiện ở ngoài ứng vào trong mà Phù.
.Âm hư huyết thiếu, khí trung tiêu hư tổn ắt sinh ra Phù (vô lực).
CHỦ BỆNH
Phù mà tán là chứng chóng mặt, đi đứng không vững. Các  mạch Phù mà người bệnh không nóng nẩy đều thuộc về dương, là bệnh nhiệt.
Thái dương bệnh thì mạch Phù. Mạch Phù là bệnh ở phần biểu.
Mạch ở bộ xích Phù: mắt vàng, chảy máu mũi.
Mạch thốn khẩu Phù là trúng phong, phát sốt, đầu đau... Mạch bộ quan Phù thì bụng đầy không muốn ăn... Mạch bộ xích Phù là nhiệt phong tụ ở dưới, tiểu khó... 
Mạch ở bộ quan hơi Phù là nhiệt tích tụ ở Vị, nôn ra giun, hay quên.
\Bộ thốn mà Phù là đầu đau, chóng mặt hoặc phong đàm tụ ở ngực. Bộ quan Phù là Tỳ suy, Can vượng. Bộ xích Phù (ở trung ấn) là tiểu không thông.
Bộ Tâm (tả thốn) Phù thì thần không yên, nói cuồng, kinh sợ . Bộ Can (tả quan) Phù thì tê liệt, co quắp, tức ngực, cơ thể đau nhức. Bộ Thận (tả xích) Phù thì ói ra máu, lưng đau, răng đau. Phù mà vô lực là có nhọt ở đầu gối chân . Bộ Tỳ (hữu quan) Phù thì bị lỵ, suyễn, tiêu chảy, ăn kém . Bộ Phế (hữu thốn) Phù thì suyễn, trường phong, mặt nặng, Phế ung .
Mạch Phù phần nhiều thấy ở chứng biểu, phong tà còn ở bên ngoài. Nếu như mạch Phù vô lực thì thuộc về hư chứng.
Mạch Phù chỉ chứng ở biểu, có lực là biểu thực, không lực là biểu hư.
Mạch Phù chủ bệnh nhiệt, đầu đau, gáy cứng, sợ lạnh, gió, ra mồ hôi, mũi nghẹt, ho khan, khát nước, suyễn, nôn, bỉ khối, phong thủy, bì thủy, khí nghịch lên, huyết hư.
Tả Thốn PHÙ    Tâm Dương bốc lên, mất ngủ, buồn bực.
Hữu Thốn PHÙ  Thương phong, cảm mạo, Phế khí nghịch , suyễn, ho khan.
Tả Quan PHÙ    Can khí thống.
Hữu Quan PHÙ   Tỳ khí trướng, nôn mửa.
Xích PHÙ       Thận khí không đủ, thắt lưng đau, chóng mặt, tiểu khó, kinh nguyệt không đều.
 KIÊM MẠCH
Mạch Phù mà Huyền là Thận bất túc.
Tâm và Phế đều Phù làm sao mà phân biệt? -Thưa: Phù mà Đại, Tán là Tâm bệnh, Phù mà Đoản, Sáp là Phế bệnh.
Mạch thốn khẩu Phù mà Khẩn. Phù là phong, Khẩn là hàn -
Mạch Phù mà Hồng, mình đổ mồ hôi ra như dầu, suyễn, không nuốt nước miếng được, cơ thể mất cảm giác, khi tỉnh khi loạn, mạch sống tuyệt vậy
Mạch Phù Trì, mặt nóng đỏ mà run sợ, trong 6-7 ngày phải ra mồ hôi mà giải, nếu không sẽ phát sốt mà mạch càng Trì. Trì là vô dương, vì vậy không cho ra mồ hôi được, thân mình người bệnh sẽ sinh ra ngứa.
Dương minh bệnh, mạch Phù Khẩn thì nóng từng cơn mà phát tác có lúc.
Tam dương cùng bệnh, mạch Phù Đại, chỉ có muốn nằm ngủ, mắt vừa nhắm thì ra mồ hôi.
Kiết lỵ mà mạch lại Phù Sác ở bộ thốn, xích thì Sáp, đại tiện ắt phải có máu mủ.
Đàn ông thấy mạch Phù Nhược mà Sáp thì tinh khí trong, lỏng, vì vậy mà không có con được.
Mạch thốn khẩu Phù mà Đại, ấn tay lại thấy Sáp, nên biết là ăn không tiêu.
Các mạch Phù Sác thì phát sốt, nếu lại sợ lạnh mà có chỗ đau thì phải phát ra mụt nhọt.
Mạch Phù mà Đại là trúng phong, đầu nặng, mũi nghẹt
3 bộ mạch Phù mà Hoãn là bì phu mất cảm giác
Phù, Hồng, Đại, Trường là chóng mặt, điên .
Phù mà Hoạt là ăn không tiêu, Tỳ không vận hóa .
Phù mà Tế Hoạt là thương thực
Phù mà Đoản là Phế bị tổn thương.
·  Mạch Phù Trì là trúng phong.
·  Phù Sác là phong nhiệt.      
·  Phù Hồng là hư nhiệt.  
·  Phù Khẩn là phong hàn.
·  Phù Tán là hư lao.
·  Phù Hư là thương thử.
·  Phù Khổng là mất máu.
·  Phù Hoãn là phong thấp.
·  Phù Sáp là thấp.
·  Phù Hoạt là đàm hỏa, ăn uống không tiêu.
Mạch Phù Sác là cảm nhiệt nhưng nếu thấy Phù Vi là bệnh sắp hết vì nhiệt tà không truyền  sang kinh khác. Phù Trì là cảm hàn. Phù Khẩn là ngoại cảm thương hàn. Phù Đại là bệnh đang tiến triển. Phù Hoạt là cảm thấp khí sinh ra nhiều đàm nhớt . Phù Nhu là thương thấp, khí huyết hao mòn. Phù Huyền là bị ngoại cảm lại kèm khí huyết suy nhược.