LONG CỐT
Tên
thuốc: Osdraconis.
Tên
khoa học: Os draconis
Bộ phận dùng: khối xương đã hoá đá (như đá vôi).
Long cối là thứ xương của loài động vật,chôn dưới đất lâu năm hoá đá, sắc
trắng, chắc, cứng, có thứ sắc hơi nâu, xanh, vàng, hoặc lốm đốm. Để vào đầu
lưỡi thì dính chặt.
Tính
vị: vị ngọt,
chát, tính bình.
Quy
kinh: Vào kinh Can,
đởm, Tâm và Thận.
Tác
dụng: trấn kinh, cố sáp,
thu liễm, sinh cơ (lên da non).
Chủ
trị: kinh giản, di tinh,
bạch đới, tự đổ mồ hôi, đi tả, đi lỵ, nên nHọt không kín miệng (rửa sạch chỗ
đau, tán bột thật nhỏ rắc vào).
-
Can Thận âm hư kèm Can dương vượng biểu hiện như hoa mắt, chóng mặt, mờ mắt hoặc
kích thích: Dùng Long cốt với Mẫu lệ, Đại giả thạch và Bạch thược trong bài
Trấn Can Tức Phong Thang.
-
Xuất tinh do thận suy: Dùng Long cốt với Mẫu lệ, Sa uyển tử và Khiếm thực.
-
Hồi hộp và mất ngủ: Dùng Long cốt với Mẫu lệ, Viễn chí và Toan táo nhân.
-
Khí hư do Thận suy: Dùng Long cốt với Mẫu lệ, Sơn dược và Ôtặc cốt.
-
Ra mồ hôi trộm và ra mồ hôi ban đêm: Dùng Long cốt với Mẫu lệ và Ngũ vị tử.
Liều
dùng: Ngày dùng 8 - 9g.
Cách Bào
chế:
Theo
Trung Y:
+
Nung đỏ, tán bột dùng hoặc dùng sống (Bản Thảo Cương Mục)
+
Tẩm rượu một đêm, sấy khô tán bột rồi đem thuỷ phi 3 lần: khi nào uống, hoà với
thuốc sắc, không sắc chung.
Theo
kinh nghiệm Việt Nam: Đem Long cốt bỏ vào lò lửa nung cho thật đỏ, thời gian 4
giờ, để nguội, tán bột thật mịn dùng cho thuốc chén hoặc thuốc hoàn tán.
Cũng có trường hợp cá biệt dùng sống hoặc khi nung đỏ nhúng vào giấm rồi mới để
nguội, tán dùng.
Kiêng
ky: các chứng trên do
thấp nhiệt gây ra thì không nên dùng uống.trong.