CÂU KỶ TỬ
Tên
thuốc: Fructus Lycii.
Tên
khoa học: Lycium sinense Mill
Họ Cà (Solanaceae)
Bộ phận dùng: quả. Quả chín có
màu đỏ sẫm hoặc vàng đỏ, trong có nhiều hạt, hình thân dẹt.
Quả lớn đều nhau, mềm là tốt, màu thâm đen là xấu, để
lâu thường đen kém phẩm chất. Cho nên khi thấy gần thâm đen, người ta phun qua
ít rượu, xóc đều thì nó nở ra, đồng thời màu tươi đỏ lại nổi lên, cho vào
lọ đậy kín. Có người phun ít rượu rồi sấy qua diêm sinh.
Thành phần hoá học: có caroten, calci,
phosphat, sắt, vitamin C, acid nicotinic, amon sunfat, còn có ly sin, cholin,
betain, chất béo, protein.
Tính vị: vị ngọt, tính bình.
Quy kinh: Vào kinh Phế, Can và
Thận.
Tác dụng: bổ Can, Thận, làm thuốc cường
tráng.
Chủ trị: Quả: trị phong tê, khoẻ gân
cốt, bổ tinh khí. Lá: trị ho, sốt...
-
Can phế âm hư biểu hiện hoa mắt chóng mặt, nhìn lóa và giảm thị lực. Câu kỷ tử
phối hợp với Cúc hoa và Thục địa hoàng trong bài Kỷ cúc địa hoàng hoàn.
-
Can và thận âm hư biểu hiện đau lưng mỏi gối và di mộng tinh. Câu kỷ tử phối
hợp với Thục địa hoàng và Thiên môn đông.
-
Phế âm hư biểu hiện ho. Câu kỷ tử phối hợp với Mạch đông, Tri mẫu và Xuyên bối
mẫu.
Liều dùng: Ngày dùng 6 - 12g
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Lựa thứ quả đỏ tươi, tẩm rượu vừa
để một hôm, giã dập dùng
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Quả: thường dùng sống trong
thuốc thang, không tẩm sao. Có khi tẩm rượu, sấy (chóng khô), hoặc có khi tẩm
mật, rồi đem sắc ngay. Khi làm hoàn tán, sấy nhẹ cho khô giòn, tán bột mịn.
Lá: nấu Can h với thịt để trị ho, sốt; với cật heo ăn
bổ sinh dục.
Vỏ rễ (xem Địa cốt bì).
Bảo quản: dễ bị thâm đen. Để kín gió
trong lọ kín, dưới lót vôi sống hút ẩm. Nếu bị đen có thể sấy hơi diêm sinh
hoặc phun rượu, xoè lên sẽ trở lại màu đỏ đẹp
Kiêng kỵ: Tỳ, Vị suy yếu, đi sống phân không nên
dùng.