TAM THẤT
Tên thuốc: Radix Notoginsing.
Tên
khoa học: Panax
pseudo-ginseng (Burk)
Họ
Ngũ Gia Bì (Araliaceae)
Bộ phận dùng: củ. Củ Tam thất mọc hoang ở rừng núi
(loại to 85 củ = 1kg, nhỏ cũng được 102 củ = 1kg), cứng nặng đen, thịt xanh
xám, chỗ cắt mịn thì tốt, còn thịt trắng vàng là kém, thứ Tam thất gây trồng
thì bé hơn, thứ da nhẵn, ít đắng thì kém phẩm chất.
Không
nhầm với củ Nga truật (Curcuma zedoaria Roscoe Họ Gừng) thường làm Tam thất giả
và cũng đừng nhầm với Thổ tam thất (Gynura sgetum (Lour) Merr, Họ Cúc), củ to
hơn, da ngoài vàng xám, ít đắng.
Có
người nói lấy bột Tam thất cho vào máu vừa mới đặc mà máu tan ra thì đúng là
Tam thất.
Thành
phần hoá học:
có hai chất Saponim là, Arasaponin A và Arasaponin B, ngoài ra còn có phần dầu,
loại đường và nhựa.
Tính
vị: vị đắng, hơi
ngọt, tính ấm.
Quy
kinh: Vào 2 kinh Can và
Vị.
Tác
dụng: tán ứ, sinh tân chỉ
huyết.
Chủ
trị: trị thổ huyết, băng
huyết, lỵ ra huyết, ứ huyết do tổn thương (dùng tươi).
-
Xuất huyết nội tạng hoặc xuất huyết ngoài: Dùng riêng bột Tam thất hoặc phối
hợp với Hoa nhuỵ thạch và Huyết dư tán.
-
Xuất huyết và sưng do chấn thương ngoài: Dùng Tam thất dạng bột dùng ngoài.
Liều
dùng: Ngày dùng 4 - 6g.
Cách Bào
chế:
Theo
Trung Y: Mùa nắng hoặc mùa đông, đào lấy củ đem về rửa sạch, phơi khô khi dùng
thái lát, tán bột.
Theo
kinh nghiệm Việt Nam: Có thể dùng tươi, rửa sạch, giã đắp lên vết thương. Rửa
sạch, phơi khô, khi dùng tán bột hoặc mài với nước mà uống, không dùng sắc và
không sao tẩm gì. Rửa kỹ bằng bàn chải, để ráo, ủ rượu cho mềm, bào phiến mỏng,
sấy nhẹ cho khô đựng trong lọ kín, khi dùng hãm riêng rồi hoà vào chén thuốc đã
sắctới cho uống. Có người rửa kỹ để ráo, ủ rượu 3 giờ cho mềm, thái mỏng sao
qua (vi sao), tán bột để dùng.
Bảo
quản: cần tránh mọt, sao
chế rồi đậy kín nên dùng ngay.
Kiêng
ky: người huyết hư,
không có ứ huyết thì không dùng.
Ghi
chú:
hầm Tam thất với gà ác
cho ăn thì rất bổ.